Logo-print CƠ QUAN CỦA TRUNG ƯƠNG HỘI - TIẾNG NÓI CỦA CỰU CHIẾN BINH VIỆT NAM

Hàng loạt dấu hiệu bất thường trong vụ kiện đất ở Bảo Thắng (Lào Cai):

Doanh Chính - Lê Thanh 30/12/2025 - 10:55

(Tiếp theo và hết)

Vai trò của thẩm phán Lìn Thị Lài và công lý ở đâu trong một vụ án đã quá rõ ràng?

Vụ án giữa ông Lý Văn Thắng, bà Nguyễn Thị Nở và các bên liên quan (bị đơn: Bà Nguyễn Thị Huyền; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty Trách nhiệm hữu hạn thương mại Hoàng Lan, bà Nguyễn Thị Nga) vốn đã chứa đầy hồ sơ, giấy tờ và quyết định hành chính thể hiện quyền sử dụng đất. Thế nhưng, theo đơn tố cáo gửi đến báo chí và cơ quan chức năng, việc thụ lý, thu thập chứng cứ, thẩm định thực địa và phán quyết cuối cùng của thẩm phán Lìn Thị Lài đã để lại hàng loạt dấu hỏi pháp lý nghiêm trọng: Từ việc tiếp nhận tài liệu bất hợp pháp, xác định sai chủ thể có quyền khởi kiện, tới việc không tạm đình chỉ khi xuất hiện dấu hiệu hình sự - những hành vi theo đơn tố cáo có thể dẫn tới hậu quả biến đất hợp pháp của doanh nghiệp thành “đất hợp pháp” của người khởi kiện và thậm chí có dấu hiệu lợi dụng chiếm đoạt tiền ngân sách.

bd-1624-2-1000
Theo ông Thu cho biết: Mấy cây Gáo nước được ông Thắng khai nhận trước Tòa là tự trồng và được cán bộ của Tòa án đi thẩm định, xác định đường kính từ 50-60cm để đưa vào hồ sơ?

Thụ lý, chứng cứ và thủ tục: những điểm tối không thể bỏ qua

Đơn tố cáo tập trung vào một mạch sai phạm tuyến tính..., từ thủ tục tiếp nhận đơn, thẩm định tài liệu đến quyết định thụ lý vụ án. Những điểm chính cần lưu ý trong vụ việc này theo giới chuyên gia pháp lý nhận định, cho thấy quyền khởi kiện chưa rõ ràng: Ông Thắng - bà Nở không xuất trình Giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất (CNQSDĐ) hợp pháp cho phần diện tích mà họ khởi kiện (theo Luật Đất đai 2013, quyền sử dụng được công nhận bằng Giấy CNQSDĐ; chỉ khi có Giấy chứng nhận mới có đầy đủ quyền khởi kiện, chuyển nhượng, góp vốn...).

Tuy nhiên, theo đơn, thẩm phán Lài vẫn thụ lý yêu cầu “tuyên vô hiệu Hợp đồng CNQSDĐ” giữa bà Huyền và bà Nga - trong khi hợp đồng đó không phải do ông Thắng, bà Nở giao kết, và các quyết định trước đó (Sở Tài nguyên và Môi trường, Tòa án nhân dân tỉnh) đã khẳng định việc cấp Giấy CNQSDĐ đứng tên bà Nga là đúng quy trình.

Việc sử dụng tài liệu bất hợp pháp thể hiện trong hồ sơ chỉ có bản photocopy hợp đồng viết tay ngày 1-5-1998 (không công chứng, không chứng thực, không mô tả tọa độ, diện tích, ranh giới), tài liệu này từng bị Tòa án nhân dân (TAND) huyện trả lại và TAND tỉnh ghi nhận là “không có căn cứ pháp lý”. Tuy nhiên, theo tố cáo, thẩm phán Lài vẫn sử dụng bản hợp đồng photocopy này làm căn cứ xem xét tại thực địa và làm nền cho các xác định diện tích về sau - hành vi mà đơn tố cáo cho rằng đã vi phạm quy định Điều 95 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) và làm lệch hồ sơ vụ án.

Đồng thời hồ sơ có dấu hiệu nghi vấn về giả mạo hồ sơ bồi thường giải phóng mặt bằng (Quyết định số 9207/QĐ-UBND ngày 29-11-2019, chi trả 202.136.223 đồng) và việc hủy hoại diện tích lớn đất trồng cây cao su gây thiệt hại cho Công ty Hoàng Lan không được tạm đình chỉ khi có dấu hiệu hình sự. Theo tố cáo, thay vì chủ động chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra khi nhận thấy dấu hiệu hình sự, thẩm phán Lài vẫn tiếp tục giải quyết dân sự - điều mà người có đơn cho rằng là vi phạm thủ tục, có dấu hiệu bao che, bỏ lọt tội phạm.

tru-so-tand-khu-vuc-6-lao-cai--noi-tham-phan-lin-thi-lai-xet-xu-vu-kien-theo-don-khoi-kien-vo-ly-cua-ong-thang--ba-no-1001
Trụ sở TAND khu vực 6, Lào Cai - nơi thẩm phán Lìn Thị Lài xét xử vụ kiện theo đơn khởi kiện “vô lý” của ông Thắng - bà Nở.

Mâu thuẫn số liệu - chứng cứ “nhảy múa” và hệ quả thực tiễn

Một vụ án dân sự tưởng chừng đơn giản trở nên rối rắm vì mâu thuẫn, thay đổi số liệu và dịch chuyển ranh giới địa chính trong hồ sơ. Các con số cần được làm sáng tỏ: “Tổng diện tích do bà Nguyễn Thị Nga mua (thửa 146, 153, 172, tờ bản đồ 01): 116.283,0m2 (đã được cấp Giấy chứng nhận: BD273554; sau đó Sở Tài nguyên và Môi trường cấp lại CM843963 ngày 12-7-2018).

Tại lần thẩm định ở TAND tỉnh (ngày 15-3-2024), xác định diện tích bị chồng lấn: 8.145,4m2 và biên bản ghi chú đây là số liệu do ông Thắng tự xác định, không có căn cứ pháp lý.

Sau đó, ông Thắng và bà Nở lại nộp đơn tại huyện với yêu cầu đòi 9.392,8m2.

Bản án sơ thẩm được tố cáo lại xác định 9.929,8m2, gia tăng thêm so với con số đương sự trình bày, cho thấy một bước nhảy số không có lời giải thích pháp lý thỏa đáng trong hồ sơ tố cáo.

Quyết định thu hồi năm 2019 (QĐ 9207) của Ủy ban nhân dân huyện Bảo Thắng ghi 3.179,7m2 bị thu hồi bồi thường; trong khi hồ sơ CNQSDĐ trước đó của ông Thắng và bà Nở ghi thửa số 84, tờ bản đồ 1, diện tích 41.256,0m2 (ghi rõ các biến động: tách thửa, chuyển nhượng...).

Sự “dịch chuyển” các thửa, mốc và số liệu khiến việc phân định ranh giới pháp lý hoàn toàn mơ hồ, gây hậu quả trực tiếp: Tạo điều kiện cho việc hợp thức hóa diện tích khởi kiện của ông Thắng và bà Nở (theo đơn tố cáo: khoảng 9.392,8m2 đến 9.929,8m2) trên phần đất đã được chứng nhận hợp pháp đứng tên bà Nga - Công ty Hoàng Lan.

Từ số liệu dịch chuyển không rõ từ đâu dẫn tới hậu quả: Doanh nghiệp mất đất, cây trồng bị phá hoại, ngân sách có dấu hiệu bị chi trả không đúng (bồi thường 202.136.223 đồng) khu thu hồi đất để làm đường giao thông, và quyền lợi người có giấy chứng nhận hợp pháp bị xâm hại.

Những câu hỏi pháp lý và đạo đức tố tụng cần làm rõ ngay

Từ tố cáo và các dữ kiện trong hồ sơ, có một số câu hỏi then chốt mà cơ quan chức năng, TAND cấp trên và Cơ quan điều tra Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao cần làm rõ, trả lời để lấy lại công bằng và niềm tin của dân.

Thứ nhất, tại sao thẩm phán Lìn Thị Lài tiếp nhận thụ lý khi hồ sơ khởi kiện thiếu điều kiện chủ thể (không có giấy chứng nhận) và khi TAND huyện trước đó đã yêu cầu bổ sung, thậm chí trả lại đơn? Việc thụ lý liệu có tuân thủ Điều 12 BLTTDS (nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật) và quy định về thẩm quyền giải quyết vụ án?

Thứ hai, tại sao một bản hợp đồng photocopy viết tay không pháp lý (không chứng thực, không xác định ranh giới, không trích đo, không có diện tích cụ thể) lại được sử dụng làm “kim chỉ nam” cho thẩm định thực địa và là nguồn dẫn đến việc xác định diện tích chồng lấn? Ai là người đề xuất, ai là người chịu trách nhiệm về việc coi tài liệu này có giá trị?

Thứ ba, sự khác biệt giữa các con số (8.145,4m2 - 9.392,8m2 - 9.929,8m2): Ai đã thực hiện các phép đo, bằng phương pháp nào, căn cứ vào tài liệu nào? Việc tăng, giảm diện tích có được sự tham gia của cơ quan chuyên môn độc lập (Sở Tài nguyên và Môi trường, Văn phòng đăng ký đất đai) hay chỉ dựa trên “xác định tại chỗ” theo ý chí của đương sự?

Thứ tư, khi hồ sơ có dấu hiệu hình sự (giả mạo bồi thường giải phóng mặt bằng, chi trả 202.136.223 đồng; phá bỏ diện tích lớn đất trồng cây cao su của Công ty Hoàng Lan), vì sao Tòa không chủ động chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra, mà để các bên phải gửi đơn tố giác? Việc không tạm đình chỉ vụ án để chờ kết quả điều tra có phải là lỗ hổng trong áp dụng Điều 214 BLTTDS?

Thứ năm, có hay không hành vi “dịch chuyển khống” thửa đất (từ thôn Cầu Xum sang thôn Làng Giàng) trong hồ sơ làm thay đổi bản đồ, ranh giới để phù hợp với yêu cầu của người khởi kiện? Nếu có, hành vi này cần được xác minh với bản đồ địa chính, trích lục, quyết định Giám đốc Sở/UBND có liên quan.

Thứ sáu, tính minh bạch và trách nhiệm bồi thường: Nếu bồi thường, chi trả cho người không đủ điều kiện là có thật, ai phải trả lại tiền cho ngân sách? Căn cứ pháp lý nào để phục hồi quyền lợi cho chủ sử dụng đất hợp pháp (Công ty Hoàng Lan, bà Nga)?

Từ những vấn đề trên, đơn tố cáo chỉ ra chuỗi sự kiện và số liệu cụ thể diện tích từ 116.283m2 đất đã được chứng nhận (bà Nga) đến gần 9.000 - 9.900m2 bị “hợp pháp hóa” cho người khởi kiện; từ 3.179,7m2 thể hiện trong QĐ 9207 đến con số chi trả 202.136.223 đồng; từ thiệt hại do phá hủy diện tích lớn đất trồng cây cao su của Công ty Hoàng Lan... Những con số này không phải là phép so sánh ý niệm, mà chúng là dữ kiện, là bằng chứng cần được so sánh, kiểm chứng qua hồ sơ địa chính, biên bản đo đạc, trích lục, quyết định hành chính và các văn bản chuyển nhượng, công chứng.

Với những tình tiết mâu thuẫn, phi lý, thiết nghĩ cơ quan tố tụng cấp trên và Cơ quan điều tra Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao cần vào cuộc, làm rõ từng mảng dữ kiện, trả lời công khai các câu hỏi nêu trên. Nếu có dấu hiệu vi phạm hình sự thì khởi tố, xử lý nghiêm; nếu có sai sót tố tụng thì phục hồi quyền lợi cho người bị xâm phạm và xử lý trách nhiệm những người làm sai. Công lý không thể là lời nói suông; trong vụ việc này, công lý đòi hỏi sự minh bạch, xác minh số liệu và chịu trách nhiệm bằng pháp luật.

Đọc tiếp

Mới nhất

Hàng loạt dấu hiệu bất thường trong vụ kiện đất ở Bảo Thắng (Lào Cai):