Khuyết tật nhưng không đầu hàng số phận, cô giáo Nguyễn Thị Thu Huyền ngày ngày dạy những học trò cũng “khuyết tật” - mang trong mình di chứng da cam. Giữa bao thiệt thòi, lớp học ở Làng Hữu nghị Việt Nam sáng lên bằng nghị lực, tình thương và khát vọng sống.
Sáng sớm tại Làng Hữu nghị Việt Nam (thuộc Trung ương Hội Cựu chiến binh Việt Nam), những tia nắng đầu ngày len qua tán lá xanh mướt, rọi xuống con đường nhỏ lát gạch đỏ vừa ráo nước sau những ngày ngập lụt. Phía hành lang lớp Giáo dục đặc biệt 3, do cô giáo Nguyễn Thị Thu Huyền làm chủ nhiệm, học sinh nhấp nhô lau dọn hành lang, treo lại mấy giỏ cây trước lớp. Không gian yên ắng, nhưng mang trong mình nhịp sống đặc biệt, những tiếng chim ríu rít trên cành, tiếng lá xào xạc hòa quyện với tiếng cười ồ ồ, tiếng ú ớ của các em học sinh “đặc biệt” làm không gian nhộn nhịp hơn.
Trên từng gương mặt ngây ngô, ngờ ngệch đến đáng thương của những học sinh chịu hậu quả của chất độc da cam ấy làm tôi thấy xót xa. Khung cảnh này đang hiện hữu từng ngày từng giờ tại Làng Hữu nghị Việt Nam (Làng). Nơi đây, mỗi cán bộ, giáo viên, nhân viên của Làng ngày ngày miệt mài, âm thầm cống hiến, hy sinh vì những đứa trẻ thiệt thòi.
Lớp Giáo dục đặc biệt 3 nằm nép mình trong Trung tâm Giáo dục và Dạy nghề. Cô Huyền bước vào lớp với dáng đi khập khiễng. Lớp học của cô có 12 học sinh, đều là em, cháu của cựu chiến binh - những nạn nhân chất độc da cam/dioxin, mỗi em mang trong mình những di chứng riêng: Có em chậm phát triển trí tuệ, có em hạn chế vận động tay chân, có em bị câm điếc, có những em mắc nhiều bệnh lý khác. Mỗi em một hoàn cảnh, một thân phận, một nỗi đau da cam…
Nếu như ở lớp học bình thường bên ngoài, 6 tuổi vào lớp 1, học hết lớp 1 rồi đến lớp 2, cứ thế, theo từng năm đủ điều kiện sẽ lên lớp. Trong 12 năm, học sinh sẽ tốt nghiệp Trung học phổ thông. Nhưng ở đây. Không!
Học sinh của cô Huyền đa độ tuổi. Bé nhất là 14, lớn nhất là 26 tuổi. Nghe đến tuổi, mọi người nghĩ rằng: Chắc học gì nhiều lắm!. Nhưng dù 26 tuổi hay 14 tuổi thì cũng như nhau. Bởi nhận thức các em chỉ đến thế. Em 26 tuổi chưa chắc đã nhớ bảng chữ cái, đã đánh vần, hay làm toán được như em tuổi 14.
Vì đa độ tuổi, đa trình độ, nhận thức nên khó khăn cho cô Huyền là mỗi học sinh một giáo án, mỗi em một nhu cầu, khiến công việc của cô vừa dạy vừa dỗ. Là lớp giáo dục đặc biệt nên chương trình dạy học ở đây cũng thật “đặc biệt”, chẳng giống nơi nào. Mỗi em là một thế giới riêng. Trên bàn cô Huyền không chỉ có một giáo án mà chồng chất nhiều cuốn vở khác nhau, mỗi cuốn là một “chìa khóa” riêng để mở cánh cửa tâm hồn cho từng học trò. “Các em không thể học như những đứa trẻ bình thường. Có em chỉ cần nhận biết được mặt chữ, có em học cách viết tên mình, có em lại chỉ dừng ở việc phát âm được một tiếng. Vì vậy, tôi phải soạn giáo án riêng cho từng em” – cô Huyền nói.
Không dừng lại ở đó, một số em có hành vi bộc phát: nổi cáu, chạy lung tung, đập phá, cắn tay… vì vậy, cô luôn luôn phải quan sát để biết tình hình, khi có vấn đề phải xử lý ngay. Bởi theo cô Huyền, các em vốn dĩ đã không bình thường lại trong độ tuổi dậy thì. Nếu mình sơ sẩy là chọc ghẹo nhau ngay. Cô Huyền kể: “Nhiều lúc, không dám đi vệ sinh, vì đi là lại đánh nhau, chọc nhau. Nếu cô muốn đi đâu phải nhờ cô giáo khác trông hộ hoặc nhờ bạn nào khá nhất lớp quản lý một tí. Đi là phải nhanh nhanh mà về. Cứ như con mọn ấy…”.
Trong lớp, cô không chỉ dạy chữ, dạy số. Mỗi buổi sáng, trước khi vào lớp học, các em còn học kỹ năng như: Tưới cây, quét dọn lớp, sắp xếp bàn ghế, đồ dùng học tập… Cô Huyền cho biết: “Chúng tôi muốn các em như những người bình thường. Những việc này giúp các em hình thành thói quen tự lập từ lớp học, để về nhà cũng có thể làm được”.
Cô Huyền không chỉ là giáo viên mà còn là tấm gương sống về nghị lực và sự kiên cường. Cô bị khuyết tật từ nhỏ: Tay co quắp, chân cứng, bước đi tập tễnh. Theo cô kể: Cô bị khuyết tật từ bé, 7 tuổi mới biết đi; trải qua nhiều ca chữa trị, châm cứu, mổ chân thì mới được như bây giờ.
Chính cô là người khuyết tật nên cô hiểu hơn ai hết những khó khăn, vất vả, thiệt thòi, tự ti của những đứa trẻ “có lớn mà chẳng có khôn” trong lớp học của mình. Cô Huyền nhớ lại, khi người em gái còn rất bé, em đã hồn nhiên nói một câu làm cô suy nghĩ và quyết tâm vượt qua số phận để vươn lên: “Sau này lớn lên, em không nuôi chị đâu”. Câu nói ấy đã ghim vào đầu cô Huyền để cô cố gắng học tập, theo đuổi sự nghiệp từ Khoa Giáo dục đặc biệt của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Từ đây, giúp cô Huyền gắn bó với những đưa trẻ cùng cảnh ngộ như mình. Nghị lực phi thường, ý chí tự lập, không muốn là gánh nặng cho ai đã trở thành động lực lớn để cô gắn bó với Làng 20 năm qua. Đây có lẽ cũng chính là động lực, là tấm gương để học sinh của cô soi vào, vươn lên. Nhưng cô Huyền nói 1 câu làm tôi chua xót: “Các em cũng không nhận biết được điều này đâu em. Mình có là gương hay không thì cũng không có nghĩa lý gì với nhiều bạn ở đây. Bởi các em không nhận thức được…”.
Khi tôi hỏi: Động lực nào giúp cô gắn bó, yêu thương các em vô điều kiện? Cô Huyền nói: “Mỗi tiến bộ nhỏ của các em. Hôm nay học chữ “i”, ngày mai vẫn nhớ; hôm nay học phép tính 2+6=8, ngày mai vẫn biết làm… đó là phần thưởng quý giá. Ở đây không có thi cử, không có chứng nhận này nọ, không có huy chương, hay giải thưởng, chỉ là từng bước tiến của các em. Khi các em hòa nhập được cộng đồng, tự lập và tự tin, tôi thấy hạnh phúc”.
Không ít lần cô chia sẻ, chính những câu chuyện về gia đình, về hoàn cảnh, về những nỗi đau của chiến tranh đang hiện hữu tại Làng, ngay tại lớp học của cô đã giúp cô thêm kiên định với nghề.
Dù các em có biết được tình yêu thương của “cô giáo như mẹ hiền” dành cho các em hay trách nhiệm của người giáo viên dành cho học sinh hay không đi chăng nữa thì chính nghị lực của cô Huyền đang từng ngày giúp các em tự tin hơn, vươn lên từng bước, viết tiếp những câu chuyện kỳ diệu trong lớp học đặc biệt này. Khó khăn có thể nhiều, nhưng từng tiến bộ của học sinh là niềm vui, là động lực để cô – trò cùng nhau tiếp tục gieo chữ, gieo hy vọng.
Tiếng ê a tập đọc, xen lẫn những tiếng cười hềnh hệch và tiếng ú ớ vụng về vang lên khắp lớp, tất cả đều được cô Huyền chỉ đạo, sắp xếp lại, hòa thành bản giao hưởng. Mỗi bước tiến, dù rất nhỏ của các em trong lớp Giáo dục đặc biệt 3 là minh chứng cho tình yêu nghề và nghị lực phi thường của cô Huyền. Nhưng đằng sau những câu ê a, những nét chữ vụng về ấy là những câu chuyện riêng biệt, những mảnh đời đầy gian khó mà cô đã và đang kiên nhẫn dìu dắt.
(Còn nữa)