Giữa những mảnh đời còn thiếu trọn vẹn, mỗi bài học, mỗi nụ cười là một viên gạch xây nên niềm tin. Ở Làng Hữu nghị Việt Nam, giáo dục không chỉ dạy chữ mà còn xoa dịu nỗi đau, chắp cánh tương lai cho các em nhiễm chất độc da cam.
Nay là chiều thứ sáu, khi nắng nhạt dần trên những ngọn cây nhãn bao quanh lớp học, tôi gặp chị Mai Thị Nhàn (xã Phúc Lộc, Hà Nội) đứng chờ em Phùng Hoài An tan học. Nhắc đến cô Huyền và Làng Hữu nghị Việt Nam, đôi mắt chị nhòe đi trong niềm vui xen lẫn xúc động. Chị nghẹn ngào kể: “Hoài An là con đầu của gia đình, cháu nhiễm chất độc da cam từ ông ngoại. Khi sinh ra, các bác sĩ đã kết luận cháu bị down. Ba tuổi rồi mà vẫn chưa biết nói. Cả nhà đau xót lắm. Sau này, tôi sinh thêm ba cháu nữa, may mắn không bị ảnh hưởng. Ngày An vào Làng năm 2019, con chưa biết làm gì, chưa biết nói, mọi sinh hoạt đều có người hỗ trợ. Ấy vậy mà, giờ đây, con thay đổi hẳn: Biết nói, làm việc nhà, thậm chí còn biết nấu ăn... Những việc tưởng nhỏ thôi nhưng là cả một bước ngoặt trong đời con”.
Chị Nhàn lau vội nước mắt, giọng lạc đi trong hạnh phúc: “Tôi mừng lắm, phấn khởi vô cùng khi con mình thay đổi từng ngày. Cô Huyền đưa con vào nền nếp rất tốt, kiên nhẫn từng chút một. Con được như hôm nay chẳng khác nào thay đổi cả cuộc đời. Tôi chỉ biết nói lời cảm ơn chân thành đến cô Huyền và Làng Hữu nghị Việt Nam”.
Trong lớp của cô Huyền còn có em Lý Bá Đức Khánh. Khánh từng là một đứa trẻ hiếu động, suốt ngày chạy nhảy, khiến gia đình lo lắng khôn nguôi. Mẹ em, chị Bùi Thị Phượng nhớ lại quãng ngày tuyệt vọng: “Sinh ra như con nhà người ta mà con mình không nói, không cười. Cả nhà đưa con đi bệnh viện, sác sĩ kết luận con bị chậm phát triển, tự kỷ, tăng động giảm trí nhớ. Lúc đó, tôi hoang mang lắm. Chúng tôi chạy chữa khắp nơi không khỏi. Khi con vào mầm non, chỉ được vài hôm, cô giáo đã từ chối nhận. Nhìn bạn bè trêu chọc con là “tâm thần”, tôi đau thắt lòng, nhiều lúc tưởng như không còn lối thoát”.
Ánh sáng hy vọng chỉ bừng lên khi Khánh được đón nhận vào Làng lúc 6 tuổi. Ban đầu, em quậy phá không ngừng, giật rèm cửa, chẳng chịu ngồi yên. Thế nhưng nhờ tình thương, sự kiên trì của cô Huyền và những “người mẹ thứ 2” ở Làng, Khánh dần thay đổi: Em biết vẽ, biết đọc, biết viết. Giọng chị Phượng nghẹn lại: “Ngày con cầm bút viết được chữ đầu tiên, cả nhà chúng tôi òa khóc. Những giọt nước mắt ấy là niềm hạnh phúc không thể diễn tả. Chúng tôi biết ơn cô Huyền và cán bộ trong Làng vô cùng. Chính cái tâm, cái đức, sự tận tụy của họ đã đem đến phép màu cho con chúng tôi”.
Nói về cô giáo Nguyễn Thị Thu Huyền, đồng chí Nguyễn Ngọc Dũng - Trưởng Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp, Làng Hữu nghị cho biết: “Cô Huyền là người khuyết tật, đi lại rất khó khăn nhưng điều đó không làm cản bước những nỗ lực, cố gắng của cô. Trong suốt 20 năm công tác, cô có 17 năm phụ trách chuyên môn của Trung tâm; là người nhiệt huyết, có trách nhiệm trong công việc. Cô Huyền đã giúp Trung tâm xây dựng được kế hoạch định hướng phát triển giáo dục của Trung tâm, sổ chủ nhiệm, phiếu đánh giá kết quả học tập của học sinh… Phụ trách lớp có 12 học sinh với những khuyết tật, mức độ nhận thức khác nhau cô đã từng bước xây dựng được chương trình dạy học riêng cho từng học sinh phù hợp với mức độ nhận thức, dạng tật. Hơn thế nữa, cô còn xây dựng các bài giảng điện tử sinh động, hấp dẫn để dạy kỹ năng sống cho các em một cách hiệu quả nhất”.
Là người thường xuyên đến Làng Hữu nghị Việt Nam, tận mắt chứng kiến công việc của cán bộ, nhân viên mà đặc biệt là những người chăm sóc, dạy dỗ các cháu là nạn nhân chất độc da cam, đồng chí Phạm Hồng Hương - Phó Chủ tịch Hội CCB Việt Nam vô cùng cảm phục và đánh giá cao sự hy sinh thầm lặng của cán bộ, nhân viên trong Làng. “Với học sinh bình thường, thầy cô giáo đã vất vả rồi, đối với học sinh đặc biệt như ở Làng Hữu nghị Việt Nam, các cô phải “yêu nghề, mến trẻ” mới gắn bó được với nghề. Nếu người không có tâm huyết, trách nhiệm, nhiệt tình thì không làm được. Đây là những việc làm thiết thực, ý nghĩa của các cô góp phần tri ân những người đã hy sinh xương máu của mình cho nền độc lập hôm nay”.
Có thể nói, nạn nhân chất độc da cam là những người nghèo nhất trong những người nghèo, những người đau khổ nhất trong những người đau khổ. Sáu mươi lăm năm đã trôi qua kể từ ngày Mỹ rải chất độc hóa học xuống miền Nam, nhưng nỗi đau da cam vẫn còn đó, hằn sâu trong mỗi gia đình nạn nhân. Theo thống kê, ở nước ta có khoảng 4,8 triệu người bị phơi nhiễm, hơn 3 triệu người là nạn nhân trực tiếp; nhiều người mắc bệnh hiểm nghèo, dị dạng, dị tật, thiểu năng trí tuệ. Nỗi đau ấy không dừng lại ở một thế hệ mà di truyền đến đời cháu, đời chắt, tạo nên biết bao thảm cảnh mà xã hội phải xót xa, day dứt.
Giữa bức tranh nhiều gam màu ấy, Làng Hữu nghị Việt Nam như một mái nhà chung ấm áp. Ở đây, hơn 110 cháu, những nạn nhân da cam được nuôi dưỡng, học tập, dạy nghề. Các cháu có niềm vui, được thay đổi từng ngày, được sống trong vòng tay yêu thương. Nhưng đó cũng chỉ là một phần rất nhỏ so với hàng triệu phận đời ngoài kia chưa được chăm sóc, chưa có điều kiện học hành, chưa được nâng đỡ để vươn lên. Nỗi trăn trở vẫn còn đó: Làm sao để không một em nhỏ nào bị bỏ lại phía sau, để nỗi đau da cam không chỉ được sẻ chia trong một mái trường, một ngôi làng mà trong cả cộng đồng?
Chăm sóc, dạy dỗ, nâng đỡ nạn nhân da cam không thể chỉ là công việc của riêng cô Huyền, hay tập thể Làng Hữu nghị Việt Nam. Đó là trách nhiệm, là nghĩa vụ và cũng là đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Lá lành đùm lá rách” của cả xã hội. Mỗi tấm lòng sẻ chia, mỗi hành động nhân ái, dù nhỏ bé đều góp thêm niềm tin, tiếp thêm sức mạnh cho những mảnh đời kém may mắn. Tri ân những người đã hy sinh vì độc lập dân tộc hôm qua, chúng ta càng phải có trách nhiệm với những người đang gánh chịu hậu quả chiến tranh hôm nay.
Khi tiếng trống tan học vang lên, các em ríu rít chào cô Huyền dù bập bõm, tiếng được tiếng không, ánh mắt cô Huyền sáng lên niềm tin và hạnh phúc. Câu chuyện cô Huyền dạy trò “khuyết tật” bằng cả trái tim, gieo niềm tin vào những mảnh đời chịu thiệt thòi nhắc nhở mỗi chúng ta rằng, giáo dục đặc biệt không là trách nhiệm của riêng ai, mà là sứ mệnh, cần sự chung tay của toàn xã hội để từ lớp học này, những hạt mầm yêu thương sẽ tiếp tục nảy nở, để không một nỗi đau nào bị lãng quên và để mọi số phận kém may mắn có thêm cơ hội sống một cuộc đời đầy ý nghĩa.