2/9

Bài 2: Khi “vết thương” hóa “yêu thương” (Tiếp theo kỳ trước)

Lê Minh Anh 03/09/2025 - 08:20

Từ Khánh, cậu bé tự kỷ ngày đầu còn giật rèm cửa, giờ đã biết vẽ, biết đọc, biết viết; Nam, cậu thanh niên ham hóng chuyện, thích chạy nhảy, nhưng cũng học được phép cộng trừ và kỹ năng tự lập; Hoài An, chàng trai nhỏ tuổi nhất, từng chưa biết số, giờ đã nhận biết chữ cái và con số; Thương, cô gái mồ côi, ban đầu chưa biết cộng trừ, nay đã đọc được câu ngắn và say mê múa hát… Mỗi em là một câu chuyện riêng, dưới ánh mắt trìu mến và bàn tay dìu dắt của cô, từng bước tiến nhỏ của các em trở thành phép màu thầm lặng, minh chứng cho nghị lực và tình yêu thương vượt lên mọi khó khăn.

2-co-huyen-can-man-huong-dan-em-nguyen-van-duc
Cô Huyền cần mẫn hướng dẫn em Nguyễn Văn Đức.

Ở lớp, bạn nào cũng có tên đẹp như lời gửi gắm, lời ước nguyện của bố mẹ dành cho con mình: Hoài An, Nguyệt Thương, Hoài Nam, Tất Thành, Đức Tài, Quang Vinh… với mong muốn em được khỏe mạnh, bình an, giỏi giang. Nhưng chất độc hóa học khốn kiếp kia lại ập xuống đầu các em. Các em có tội tình gì đâu mà phải gánh chịu? Câu hỏi ấy cứ xoáy sâu trong suy nghĩ của tôi.

Em Nguyễn Hữu Hoài Nam, sinh năm 2002, được đặt tên theo tên diễn viên Võ Hoài Nam trong phim Cảnh sát hình sự ngày đó, với mong ước cậu sẽ mạnh mẽ, kiên cường, vẻ ngoài lãng tử, bảnh bao và tài hoa như nhân vật Chiến. Nam cao lênh khênh, gầy gò, với nụ cười cong môi trên khuôn mặt, mang trong mình di chứng chậm phát triển và một hoàn cảnh hết sức khó khăn: mẹ mất sớm, chỉ còn bố và chị gái nuôi nấng hai anh em. Nam phải dựa vào sự chăm sóc của bố và tình thương của cô Huyền để từng bước trưởng thành.

Nhìn xuống Nam, cô Huyền nói: “Ngày đầu vào lớp, Nam gần như chưa biết gì. 10 năm ở đây, Nam đọc chữ xuôi, nhưng không hiểu nghĩa; làm phép cộng trừ trong phạm vi 100. Nhưng chỉ cộng trừ không nhớ. Còn phép tính cộng trừ có nhớ thì chưa làm được. Kiểu học “dập khuôn vô thức”.

Bình thường, Nam ngoan ngoãn, nhưng khi bị bực tức trong người hoặc thay đổi thời tiết, em dễ nổi cáu, thường đạp đồ trong lớp, các loại cây cảnh ngoài hành lang đạp tứ lung tung. Tuy vậy, Nam biết phân biệt: chỉ “giận cá chém thớt” với đồ của lớp mình, chưa bao giờ dám sang lớp khác quậy phá”.

2-hoai-nam-trong-gio-hoc-2330
Hoài Nam (bên trái) trong giờ học.

Khi tôi vừa bước vào cửa lớp, Nam kéo tay tôi, ấn tôi ngồi xuống bục giảng của cô Huyền, chỉ vào điện thoại, ý muốn chụp ảnh cùng bạn ấy. Khi tôi cho xem lại những bức ảnh “seo phì” đó, Nam cười, giơ ngón tay cái lên biểu thị “Like”. Thấy thế, tôi trêu: “Nam có bạn gái chưa?”. Cậu ấy lấy tay che miệng, ngửa mặt lên trần nhà cười hề hề, hồn nhiên như cậu bé 10 năm trước.

Với em Phùng Hoài An, sinh năm 2011, là học sinh nhỏ tuổi nhất lớp, với dáng lẫm chẫm nhưng nhanh nhẹn. Trước khi vào lớp, An gần như không biết gì về chữ và số. Vào lớp, từng ngày học nhận biết chữ cái, con số, từng bước làm quen với phép tính cơ bản. Cậu bé nhỏ nhắn, ham học hỏi, như “chim non học bay”, mỗi ngày tập viết một chữ, đọc một câu ngắn, dần tự tin hơn.

Ngồi trong lớp, tôi chứng kiến bạn Nguyễn Văn Đức hôm nay “khó ở”. Từ sáng, Đức nôn mấy lần. Nhiều lần nôn tự do ra lớp. Cô trò lại phải lau dọn. Trước khi Đức được cô giáo gọi cho bảo mẫu đưa về, Đức tiếp tục nôn. Nhưng lần này, cô Huyền không phải dọn mà Hoài An – em út lại nhanh nhảu dọn dẹp giúp cô. An làm rất nhanh và sạch sẽ. Cô Huyền cho biết: “Hoài An tiến bộ rất nhiều, giúp cô được nhiều việc lắm. Dù cho em học có chậm, có khó vào, nhưng với các em, những kỹ năng cơ bản trong cuộc sống hằng ngày các em học được, làm được đã là cố gắng lớn rồi”.

Bạn nữ Trần Thị Nguyệt Thương, sinh năm 2003, quê Ninh Bình, như một bông hoa nhỏ giữa vườn xanh. Dù là thiếu nữ ngoài 20 tuổi nhưng Thương chỉ cao qua cái bàn ngồi học trong lớp. Thương trắng trẻo, xinh xắn như học sinh lớp 1, lớp 2. Cuộc sống của Thương không may mắn: Bố mẹ mất từ sớm, em sống với ông bà, một mình chống chọi với khó khăn và thử thách. Thương rất ngoan ngoãn, lễ phép. Trước đây, Thương vào Làng nhưng cũng xuất phát từ con số 0 tròn trĩnh. Ban đầu, Thương học lớp cô Oanh, nhờ tiến bộ rõ rệt, Thương được “lên lớp” cô Huyền. Hiện nay, Thương đã tự tin đọc được câu ngắn, đánh vần từ “tì, ti, tí”, “củ từ”… Dù bao năm học, nhưng toán Thương vẫn đang dừng ở cộng trừ phạm vi 10. “Khó khăn đấy, nhưng cô trò chúng tôi không bỏ cuộc đâu” – cô Huyền thể hiện quyết tâm.

2-hoai-an-ben-trai-va-nguyet-thuong-trong-lop-hoc-2331
Hoài An (bên trái) và Nguyệt Thương trong lớp học.

Khi Thương đang cặm cụi đánh vần thì Thọ - cậu bạn luôn “trồng cây si” ở lớp cô Loan (trên tầng 2) đến ngồi ôm gối ngay cạnh bục giảng của lớp chờ Thương. Không biết, Thọ có phải dỗi cô giáo không mà xuống ngồi bó gối ở đây. Một lúc sau, cô Loan hớt hải chạy xuống. Cô Loan nói: “Cô biết ngay là em ở đây mà”. Rồi cô Huyền giải thích: Thọ thích Thương, mến Thương lắm. Đúng thật. Khi vừa bước chân vào lớp, tôi thấy có một bạn chạy lại giật giật áo tôi nói rằng: Bạn gái, bạn gái em... Lúc đó, tôi chưa hiểu gì. Giờ thì đã rõ.

Cô Loan dỗ nhưng Thọ không về lớp. Đến khi cô Huyền bảo Thương dẫn Thọ thì Thọ đứng lên về lớp ngay.

Cô Huyền nói: “Đấy em xem. Không chỉ dạy các em đơn thuần là đọc viết hay làm toán mà còn phải dạy kỹ năng giao tiếp, kỹ năng sống, từ cách chào hỏi, tương tác với bạn bè đến những thói quen sinh hoạt hằng ngày”.

Cụ thể như mỗi buổi sáng, em Mai Quang Vinh được cô phân công tưới cây. Vì vậy, khi cô mở của lớp, Vinh sẽ tự khắc đi lấy nước tưới hết các cây của lớp mình. Tôi gặp Thương đang lau hành lang, em căm cụi lau sạch trơn, từng li từng tí. “Đó là nhiệm vụ rồi, mình phân công như thế các em mới thấy được trách nhiệm của mình cần phải làm gì khi đến lớp. Đây cũng là cách rèn các em để sau này về hòa nhập cộng đồng các em có thể tự lo được cho mình”. Cô Huyền còn ái ngại nói thêm: “Ở đây có thể các em phải làm. Nhưng về nhà thì chưa hẳn đâu”.

Khi tôi hỏi: Bí quyết gì để cô có thể gắn bó, yêu thương các em vô điều kiện? Cô Huyền nói: “Tôi chẳng có bí quyết hay điều gì to tát cả. Tôi làm theo cái tâm và nghiệp vụ mà mình được học. Với học sinh khuyết tật, trước hết là sự am hiểu và đồng cảm sâu sắc với từng học trò. Khi mình muốn hiểu các em, thì mình phải biến những khiếm khuyết, những vết thương hóa thành yêu thương. Mình phải vào “thế giới” của các em, mình nắm được tâm, sinh lý của các em theo từng độ tuổi, từng giai đoạn phát triển, thì sẽ tìm ra được những những khuyết thiếu, từ đó dùng yêu thương bù đắp vào chỗ khuyết thiếu đó. Chính vì thế, với mỗi em, tôi lại thiết kế một giáo án riêng, dựa trên mức độ nhận thức cụ thể của từng em. Có em học được phép cộng trừ đơn giản, có em chỉ dừng lại ở việc nhận biết chữ cái, có em lại cần được động viên để dám cất tiếng đọc. Dù em có học được hay không thì cũng phải dạy em bằng tình yêu thương chân thành, thực sự nhất. Đặc biệt, mình phải kiên trì, phải tin rằng rồi sẽ có kết quả. Nếu nghĩ rằng dạy mãi cũng thế, cũng chẳng tiến bộ, dẫn đến việc buông xuôi theo kiểu “nước chảy bèo trôi” thì chỉ sinh ra chán nản. Tôi tin vào câu: “Có công mài sắt, có ngày nên kim”.

2-em-nguyen-huu-tat-thanh-dung-que-tinh-de-lam-cong-tru-trong-pham-vi-10-2331
Em Nguyễn Hữu Tất Thành dùng que tính để làm cộng trừ trong phạm vi 10.

Ước mong lớn nhất của cô Huyền là xây dựng được một bộ chương trình dạy học chung cho tất cả học sinh đặc biệt tại Làng Hữu nghị Việt Nam - chương trình có tính hệ thống, lớp này nối tiếp lớp kia, dựa trên khung sách giáo khoa của Bộ Giáo dục và Đào tạo nhưng được điều chỉnh phù hợp với khả năng của từng em. Cô trăn trở: “Nếu chỉ dừng ở lớp mình thì khi mình nghỉ, người khác vào thay sẽ rất khó để tiếp tục. Nhưng nếu có chương trình chung thì ai cũng có thể kế thừa và các em sẽ không bị đứt quãng việc học”.

Dù điều kiện hiện nay còn hạn chế, cô Huyền vẫn lặng lẽ tự tay soạn thảo, in ấn, rồi đóng thành từng cuốn Toán, Tiếng Việt riêng cho học sinh của mình. Mỗi em đều có hai quyển sách nho nhỏ, bìa cứng, đóng gáy cẩn thận, giản dị mà chứa đựng cả tấm lòng và công sức của cô.

Nhìn cô và những học trò nhỏ, ai cũng nhận ra, lớp học của cô Huyền không đo bằng thành tích, không thể hiện bằng điểm số, không có huy chương, không có bằng khen hay giấy khen… mà bằng từng bước tiến, từng nụ cười, từng ánh mắt rạng rỡ trong lớp học đặc biệt này. Tấm lòng tận tụy của cô đã trở thành điểm tựa tinh thần, giúp các bậc cha mẹ vững tin rằng, dù con em họ chịu nhiều thiệt thòi, vẫn có cơ hội được học tập, được nuôi dưỡng, được sẻ chia như bao đứa trẻ khác.

(Còn nữa)

Đọc tiếp

Mới nhất

Bài 2: Khi “vết thương” hóa “yêu thương” (Tiếp theo kỳ trước)