*Trước tình hình đó của địa phương, Hội CCB xã không đứng ngoài cuộc, toàn Hội đã tham gia, phối hợp với nhà trường và chính quyền địa phương làm tốt công tác phổ cập giáo dục, đưa công tác giáo dục ở đây từ “điểm tối” thành “điểm sáng” của huyện, của tỉnh... được chính quyền địa phương và ngành chức năng ghi nhận. Với mong muốn tìm hiểu những “Kinh nghiệm Thanh Lương”, mới đây, chúng tôi đã có dịp về đây tìm hiểu mô hình này. *

Bài 1: THANH LƯƠNG-NHỮNG ĐIỀU ĐƯỢC NGHE Từ huyện lỵ Kim Bôi, vượt hơn 30 km đường rừng với dãy núi Chồng Mâm, với đỉnh Kim Sơn, có Chợ Giời là nơi nghỉ chân của các tiên nữ trước khi về thượng giới... chúng tôi đến Thanh Lương - vùng quê yên ả thuộc vùng sâu, vùng xa nhất của huyện Kim Bôi. Sau những cái bắt tay nồng nhiệt, những chén trà nóng hổi, chúng tôi đã có buổi làm việc với các đồng chí lãnh đạo địa phương, lãnh đạo Hội CCB, nhà trường và đi thăm, tìm hiểu cuộc sống của bà con nơi đây... “Cuộc sống của bà con còn vất vả lắm!” - đồng chí Quách Công Thinh, hội viên CCB, Chủ tịch UBND xã cho biết. Gọi đây là xã lớn cũng được, vì Thanh Lương rộng tới 740ha, chiều dài từ đầu xã đến cuối xã ngót 10 cây số đường chim bay, có sông Cái lượn lờ, uốn khúc; có những dãy núi trập trùng bao quanh... Người Thanh Lương đông, tới hơn 3.300 nhân khẩu, chủ yếu là đồng bào dân tộc Mường. Cái đói, cái nghèo đã bao đời bám chặt nơi đây vì bà con chỉ biết cấy lúa gặp chăng hay chớ, chỉ biết trỉa ngô trên núi và chặt phá cây rừng; nên khi có Chương trình 135, Thanh Lương được xếp vị trí số 1 của đợt đầu tiên... Gọi là vùng rừng núi, song xã có gần 100ha diện tích thuộc vùng thấp có thể ở và trồng lúa thì lại là vùng trũng của cả vùng. Từ tháng 8 đến tháng 10 dương lịch năm nào cũng vậy, nước từ trên núi xuống, nước từ dưới sông lên, từ các xã bạn dồn sang... làm ngập cả vùng. Đường chính của xã, trụ sở Uỷ ban, các trường mẫu giáo, tiểu học, trung học cơ sở đều dầm mình trong nước. Lúa ngập đằng lúa, ngô ngập đằng ngô suốt 3 tháng trời nên úng, thối hết. Mang tiếng dân miền núi nhưng đi lại thời kỳ này chủ yếu bằng bơi lội, bằng thuyền bè... Khổ nỗi, đây chính là thời kỳ mà học sinh bước vào năm học mới...

Anh Nguyễn Xuân Bình, Chủ tịch Hội CCB xã Thanh Lương cho chúng tôi biết thêm, ngoài những lý do khách quan trên, sự yếu kém của công tác phổ cập giáo dục trước đây ở Lương Sơn chủ yếu lại từ những lý do chủ quan, do nhận thức chưa đầy đủ của người dân. Từ năm học 2005-2006 về trước, một khoảng thời gian rất dài, cả xã Thanh Lương không có một cháu nào thi đỗ vào đại học, cao đẳng - một nỗi buồn âm thầm và kéo dài của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong xã. Lúc đầu vào mẫu giáo, vào tiểu học thì cả xã có vài trăm em, đến cấp trung học phổ thông thì chỉ còn đếm trên đầu ngón tay. Xã Thanh Lương năm học 2006-2007 chỉ có 2 học sinh tốt nghiệp lớp 12 trường Cù Chính Lan. Trong xã có 3 cấp học: mầm non, tiểu học và trung học cơ sở, tổng số 37 lớp học với gần 500 học sinh, hơn 200 trẻ mầm non, 72 giáo viên. Chất lượng học sinh đại trà những năm học trước 2006-2007 không cao. Tỷ lệ khá và giỏi ở tiểu học chỉ hơn 30%, trung học cơ sở chỉ hơn 25%, còn lại là trung bình và yếu kém. Không chỉ có vậy, số học sinh trong độ tuổi đi học nhưng không đến lớp hoặc bỏ học, trốn học khá nhiều... Chấm điểm chất lượng giáo dục ở các trường thuộc xã Thanh Lương cao nhất chỉ có hơn 80/100 điểm.

Chúng tôi tới thăm nhà cháu Phạm Văn Mến, một học sinh giỏi cấp huyện ở trường trung học cơ sở Thanh Lương. ấy thế nhưng, cách đây hai năm, cháu đã từng bỏ, không đi học, dù mới chỉ vừa qua lớp 6. Trong căn nhà tuềnh toàng, Mến đang nằm bò trên dường, chuẩn bị sách vở cho năm học mới. Góc học tập của em dùng chung với giường ngủ của hai anh em chỉ là tấm phản nứt nẻ, đặt trên đôi mễ xiêu vẹo trong góc buồng tối tăm. Nhà Mến khó khăn lắm. Mẹ mất khi em mới 9 tuổi, bố một mình phải cáng đáng mẹ già cùng 8 đứa con. Gánh nặng trong nhà dồn lên vai người đàn ông 60 tuổi ốm yếu. May là hiện 6 con đã ra ở riêng, nhưng nguồn sống cho 4 miệng ăn còn lại vẫn chỉ trông chờ vào 4 sào ruộng chiêm trũng. Tuy nhỏ, nhưng Mến hàng ngày phải chăn bò, mò cua, bắt ốc, phụ giúp gia đình. Khi bỏ học, nhiều hôm chăn bò cạnh trường, em nghe tiếng học đọc đồng thanh của các bạn cùng trang lứa. Mến vừa lẩm nhẩm đọc theo vừa trào khóc đỏ hoe cả mắt. Bố Mến thương con, tuy đau xót vò xé tâm can nhưng cái khó nó bó tay chân, chẳng biết làm sao. “Cháu thèm đi học lắm” là câu nói đầu tiên của Mến với chúng tôi. Bởi thế, khi được các bác CCB, nhà trường động viên, được trợ giúp từ quỹ khuyến học, em lại đi học và kết quả học tập chứng minh cho sự ham học của một học sinh nghèo vượt khó.

Hầu hết học sinh bỏ học, trốn học là do hoàn cảnh gia đình khó khăn. Nhưng cũng có nhiều trường hợp không phải vậy. Chúng tôi cũng tới nhà em Nguyễn Trọng Tín, ở thôn Gò Mu, học sinh tiên tiến lớp 8, trường THCS Thanh Lương. Khu nhà rộng rãi, khang trang, đằng sau một cửa hàng làm đồ sắt. Ông của em, CCB Nguyễn Trọng Kim cùng hai con đều chăm chỉ làm ăn. Cả nhà đều lăn vào làm kiếm sống. Anh Nguyễn Trọng Ngân, bố Tín cùng ông em trông coi cửa hàng. Nhiều khi anh Ngân theo chúng bạn đi làm ăn xa hàng vài tháng trời. Việc chăm sóc lơi lỏng, Tín dần xao nhãng học hành. Mãi tới khi nhà trường và các hội viên CCB đến nhà thông báo mọi người mới biết.

Thanh thiếu niên bỏ học xong thì lập tức lấy vợ, lấy chồng, đi các nơi làm thuê hoặc vào rừng chặt trộm gỗ đem bán, bắt thú rừng làm thịt uống rượu... Năm này qua năm khác, hết thế hệ này đến thế hệ kia, chuyện học hành cứ lối mòn ấy mà đi, trở thành nếp sống, nếp nghĩ của mỗi người. Từ đầu xã đến cuối xã, suốt 6 bản Sấu Thượng, Sấu Hạ, Gò Mu, Xuân Him, Xuân Dương, Thanh Xuân, người Thanh Lương cứ bằng lòng như vậy. Trẻ em bỏ học - vô tư. Người lớn thì mải làm ăn, uống rượu, quên cả nộp tiền học cho con. Trong số ấy, có không ít người là CCB. Trường học các cấp xập xệ, trên thì mưa dột tong tỏng, dưới thì trống huơ trống hoác, thiếu thốn sách vở, đồ dùng học tập, bàn ghế cũng chẳng ai đoái hoài... Chuyện học hành ở Thanh Lương trước đây là như vậy. Buồn lắm!...

(Còn nữa) >Bài 2: Sự chuyển mình và cùng vào cuộc >Bài 3: Những việc làm và bài học kinh nghiệm Quang Vinh - Doãn Chiêu