Năm hai mươi tuổi, anh Nguyễn Chí Thanh vừa đi làm thuê vừa tham gia hoạt động cách mạng. Thời gian đi làm thuê, anh gặp và mến chị Nguyễn Thị Cúc ở xã Nam Dương. Gia đình chị Cúc là cơ sở cách mạng trong những năm 1924-1925. Bố chị là một trong những người thường lui tới nhà cụ Phan Bội Châu. Chị Cúc hoạt động cách mạng rất sớm. Chị cũng thầm mến người tá điền thật thà, tốt bụng. Anh Thanh chưa kịp ngỏ lời thì bị địch bắt. Lúc này anh là Bí thư Tỉnh uỷ Thừa Thiên. Dù không tìm được chứng cớ, tòa án vẫn tuyên án anh hai năm tù cầm cố. Anh bị đưa về nhà lao Thừa Phủ. Khi bị đày lên Buôn Ma Thuột, anh vượt ngục ra.
Giữa năm 1946, anh chị gặp lại nhau ở Nam Dương, quê chị. Hai người làm đám cưới theo đời sống mới. Và từ đấy anh chị cùng tham gia chiến trường Bình – Trị - Thiên gian khổ. Có lần, anh chị gặp trận càn, mỗi người chạy một ngả. Anh vượt khỏi vòng vây, lặn qua con sông nhỏ trốn thoát. Chiều tối giặc rút, anh ra bờ sông tìm xác vợ. Anh đinh ninh chị đã bị giặc giết vì chỉ thấy cái khăn quàng của chị trôi vật vờ bên sông. Bờ bên kia, chị cũng đang tìm xác anh. Hai người gặp nhau, mừng quá. Con đầu lòng của anh chị - Trường Sơn, sinh ở Chiến khu Hòa Mỹ. Hoàn cảnh kháng chiến khó khăn, cháu đau tim luôn. Để khỏi trở ngại công tác và làm phiền các đồng chí chăm sóc gia đình mình, anh chị gửi cháu về làng nhờ bà con nuôi giúp. Nhưng rồi cũng không nuôi được. Sau này, khi vào miền Nam, anh đã lấy tên đứa con đầu lòng làm bút danh cho những bài bình luận nảy lửa về chiến tranh chống Mỹ.
Năm 1950, anh Nguyễn Chí Thanh làm Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, chị Cúc theo anh vào quân đội. Hai anh chị sống trong một lán nhỏ ở rừng Việt Bắc. Hai cô con gái sau lần lượt ra đời. Cả gia đình hằng tháng sống dựa vào số gạo Nhà nước cấp theo tiêu chuẩn cho cán bộ.
Chiến tranh ngày càng ác liệt. Cuộc sống khó khăn gian khổ. Anh Thanh bị bệnh phổi vì làm việc quá sức. Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch khuyên anh nghỉ và đề nghị Bộ Chính trị ra quyết định buộc anh chấp hành. Anh gửi báo cáo xin chấp hành nhưng vì công việc đang bề bộn, đề nghị TƯ cho phép làm xong một vài việc rồi yên tâm đi nghỉ. Thư vừa gửi hôm trước thì hôm sau Bác Hồ đột ngột đến. Bác đi đường tắt, bỏ qua tổ cảnh vệ. Khi các đồng chí gác trông thấy và xúm lại thì Bác đã vào nhà trong. Bác hỏi thăm sức khoẻ anh và không chờ anh kịp thưa, Bác bảo luôn: “Bộ Chính trị đã quyết định rồi, chú sắp xếp đi nghỉ thôi”...
Sau kháng chiến chống Pháp, anh Thanh được phong hàm Đại tướng. Lúc ấy quân đội chỉ có hai Đại tướng: Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Chí Thanh. Gia đình anh Thanh được phân một ngôi biệt thự rất đẹp trên đường Thanh Niên. Anh bàn với chị xin chuyển về ngôi nhà cấp bốn giản dị ở đường Lý Nam Đế. Mất đứa con trai đầu trong chiến tranh, chị Cúc muốn sinh thêm cho anh một đứa con trai và năm 1957, chị sinh con út Nguyễn Chí Vịnh.
Anh Thanh phụ trách việc phong quân hàm trong quân đội. Mỗi đợt phong chỉ quy định một tỷ lệ nhất định. Một lần cơ quan cán bộ trình lên anh danh sách cán bộ được đề bạt từ thượng uý lên đại uý trong đó có chị Cúc, một sĩ quan rất xứng đáng được đề bạt. Nghe báo cáo xong, anh vừa cười vừa nói: “Đồng ý, trừ một người là cô Cúc. Cứ để lại không vội gì. Không sao đâu, tôi sẽ làm công tác tư tưởng cho cô ấy”.
Cuối năm 1960, tình hình nông nghiệp gặp nhiều khó khăn, anh Thanh được T.Ư chuyển sang làm Trưởng ban Nông nghiệp T.Ư. Tưởng hòa bình về, vợ chồng được gần nhau, nhưng chị Cúc lại phải xa chồng. Anh Thanh đi khắp nơi để tìm hiểu, nghiên cứu cách quản lý và rút kinh nghiệm phát động phong trào thi đua trong nông nghiệp. Mùa xuân năm 1961, phong trào thi đua “Đuổi kịp và vượt HTX Đại Phong” được anh Thanh phát động. Không khí hoạt động sản xuất nông nghiệp sôi nổi hẳn lên.
Bắt đầu cuộc chiến tranh chống Mỹ, anh Thanh trở về với quân đội. Thời gian ấy, chị Cúc không được khoẻ, không thể cùng anh vào Nam, chị ở lại Hà Nội công tác.
Sau ba năm, năm 1967, anh Thanh ra Bắc mấy tháng. Nhưng anh chị cũng không có nhiều thời gian cho nhau. Ngày nào anh Thanh cũng đi làm việc tới đêm để chuẩn bị cho Tổng tiến công Mậu Thân – 1968. Đêm cuối cùng trước khi vào Nam, anh còn làm việc đến khuya với anh Song Hào và anh Lê Quang Đạo. Hai vợ chồng chưa nói chuyện được với nhau nhiều trước khi chia tay.
Đêm mồng 5-7-1967, khu vực Lý Nam Đế mất điện. Trời oi bức, anh Thanh vừa ăn tối với Bác Hồ. Mọi thứ đều sẵn sàng. Sáng sớm ngày mai anh sẽ lên đường vào Nam. Anh đi chuyến này để thực hiện Nghị quyết mới của Bộ Chính trị về cách mạng miền Nam. Cuộc kháng chiến chống Mỹ đang rất ác liệt và kéo dài. Chưa biết đến khi nào anh trở ra Bắc, chị Cúc nằm cạnh anh, thao thức. Lần chia tay này, chị sẽ còn phải xa anh bao lâu nữa? Bỗng nhiên, anh choàng vùng dậy nói với chị:

  • Anh thấy khó chịu lắm, có cảm giác như nước chảy ào ào trong người. Cúc gọi xe đưa anh đi bệnh viện.
    Xe cấp cứu vừa đến thì anh ngất đi. Chị Cúc không được đi theo xe. Bác sĩ bảo anh bị bệnh tim. Chị đi lại ngơ ngác, thẫn thờ trong sân nhà. Khi mọi người chở chị đến bệnh viện, anh Thanh còn thở thoi thóp, mạch đập rất yếu, không hay biết gì nữa.
    Buổi sáng hôm sau, trái tim nhà chiến lược quân sự tài ba của Việt Nam đã ngừng đập. Ngày tiễn anh, có đông đủ bạn bè, đồng chí, Bác Hồ gạt lệ bên linh cữu anh. Bác không ngờ người học trò của mình - Người mà mình đặt nhiều hi vọng lại ra đi trước Bác. Chị Cúc ngất xỉu khi anh mất. Nỗi đau mất anh quá lớn, quá bất ngờ…
    Nguyệt tú
    & Nguyệt Tĩnh