CCB Nguyễn Thanh Tài sinh năm Bính Thân 1956. Tháng 3-1974, anh nhập ngũ, sau thời gian huấn luyện chiến sĩ mới thì được đi học cơ khí rồi về công tác ở một đơn vị sửa chữa trang bị kỹ thuật của Quân khu 4, chủ yếu là khắc phục các loại xe máy từ chiến trường chuyển ra. Sau hơn 10 năm phục vụ tại ngũ, anh được ra quân hưởng chế độ “một lần”. Hiện nay, anh và vợ con định cư tại Hà Nội, lao động hợp đồng để trang trải cuộc sống...
Nguyễn Thanh Tài quê ở xã Võ Liệt, huyện Thanh Chương (trước đây) của tỉnh Nghệ An. Làng anh gần bên Rú Nguộc, nơi có đường 15A, đường 15B và Truông Bồn. Đó là những huyết mạch giao thông chi viện cho chiến trường miền Nam, trở thành những mục tiêu hủy diệt của máy bay Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Những năm tháng ấy, Nguyễn Thanh Tài cùng bạn bè đã chứng kiến biết bao sự tích anh hùng, biết bao tấm gương dũng cảm, biết bao hành động cao cả của bộ đội, TNXP và dân làng trong cuộc chiến đấu giữ vững mạch máu giao thông. Đặc biệt là những hy sinh vô bờ bến của quân và dân Truông Bồn dưới mưa bom bão đạn; trong đó có sự kiện 13 nữ TNXP ngã xuống trong trận bom khốc liệt sáng 31-10-1968, chỉ hơn 10 giờ trước khi Tổng thống Mỹ tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam.
Những sự kiện bi hùng trên đây theo suốt cuộc đời Nguyễn Thanh Tài, nhất là sự kiện đau thương ngày 31-10-1968: Truông Bồn ơi! Huyền thoại cung đường/ Giao điểm “yết hầu” mệnh danh “cửa tử”/ Đã xa rồi một thời quá khứ/ Vượt gian lao khói lửa bão bùng/ Truông Bồn ơi! Huyền thoại cung đường/ Này đây “túi bom”, này “toạ độ lửa”/ Nơi Thanh niên xung phong ngày đêm canh cửa/ Lấp hố bom, cảm tử để thông đường... Đó là những câu thơ như thốt ra từ lồng ngực thổn thức của Nguyễn Thanh Tài, trong tập thơ “Huyền thoại Truông Bồn” của anh, do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành cuối năm 2024. Viết về Truông Bồn là viết về một địa danh lịch sử của quê hương, về một sự tích anh hùng trên quê hương. Cảm hứng chủ đạo của tác giả là niềm tự hào về truyền thống yêu nước, truyền thống cách mạng của quê hương anh hùng: Một miền quê khắc nghiệt dãi dầu/ Chang chang nắng, gió Lào sỏi đá/ Trên đất nước bao phen giặc giã/ Hết Pháp, Nhật rồi Mỹ, triền miên...
Viết về “Huyền thoại Truông Bồn” nhưng tác giả Nguyễn Thanh Tài đã dựng khá đầy đủ tầm vóc cuộc chiến đấu của quân và dân miền Bắc chống lại cuộc chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ, bắt đầu từ ngày 5-8-1964, địch dựng nên “sự kiện vịnh Bắc bộ” để lấy cớ xua hàng đàn máy bay các loại ồ ạt tấn công miền Bắc, mở đầu là các bến cảng quân sự ở Quảng Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình. Nhưng quân và dân miền Bắc đã chủ động đón địch và đánh thắng trận đầu giòn giã: Bốn địa phương chỉ trong một ngày/ Sáu tư chiếc máy bay quần thảo/ Đánh ba đợt, bốn nơi như bão/ Lưới ta giăng pháo nổ vang trời... Từ đây, cuộc chiến tranh leo thang ngày càng lan rộng. Miền Bắc vừa là hậu phương lớn của chiến trường miền Nam và ba nước Đông Dương, vừa là tiền tuyến lớn trong cuộc chiến tranh ngăn chặn và hủy diệt của quân thù: Ngày máy bay bắn phá khắp nơi/ Đêm pháo sáng đầy trời chúng thả/ Ngăn sao được đoàn xe hối hả/ Nối đuôi nhau rầm rập vào Nam... Đặc biệt, với địa hình của vùng “eo thắt” miền Trung, vùng Nghệ An trở thành “hiểm địa” của tuyến vận tải chiến lược: Qua Nghệ An là qua“cán xoong”/ “Yết hầu” miền Trung hai vai gánh nặng... Và không chỉ có miền quê tác giả với những địa danh khốc liệt như Đường 15A, đường 15B, Truông Bồn... mà cả Nghệ An và Quân khu 4 lúc đó thực sự là tuyến lửa, với những trọng điểm nổi tiếng, như: Hàm Rồng, Nam Ngạn, Bò Lăn, dốc Lụi, Tân Kỳ... Và: Phà Bến Thủy, Ngã Ba Đồng Lộc/ Những năm dài tàn khốc đạn bom/ Con đường đất hoá bùn non./ Hố bom nối tiếp hố bom ken dày...
Chính tại những “túi bom”, những “cửa tử”, những “tọa độ lửa”... ấy, tình quân dân được thể hiện trực quan sinh động nhất: Làng ba chín nóc nhà/ Dựa lưng vào sườn núi/ Nuôi bao nhiêu bộ đội/ Cùng Thanh niên xung phong... Không chỉ thế, nhân dân còn trực tiếp tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu: Nhân dân dỡ cả cửa nhà/ Lót đường cho kịp xe ra chiến trường. Đấy là sức mạnh toàn dân, là chiến tranh nhân dân, là “bí quyết” để một dân tộc bé nhỏ, nghèo nàn, lạc hậu... đã lần lượt đánh thắng những thế lực thực dân - đế quốc giàu có và hiện đại bậc nhất thế giới.
Và cũng chính tại những “túi bom”, những “cửa tử”, những “tọa độ lửa” ấy, đã xuất hiện những tấm gương tập thể và cá nhân tiêu biểu của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Trong đó, có Đại đội 317 của Đội 65 thuộc Tổng đội TNXP của tỉnh Nghệ An được điều về chốt giữ “yết hầu” Truông Bồn từ đầu năm 1967. Cả đơn vị thề cảm tử để giữ đường, thông hàng, thông xe... Bom đạn, nắng mưa, gian khổ... không khuất phục nổi quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của họ: Cùng nhau bám trụ tới cùng/ “Dù tim ngừng đập, không ngừng xe qua”/ Tuổi xuân hiến trọn nước nhà... Nổi bật trong tập thể anh hùng ấy là Tiểu đội 2, được mệnh danh “Tiểu đội Thép”. Biết bao ngày chị em phải thông ca để ứng cứu xe, tăng-bo hàng. Biết bao đêm chị em phải thức dậy để lao ra mặt đường san lấp hố bom kịp thông xe trước khi trời sáng. Biết bao phen chị em bị bom hất, đất vùi... lại vùng dậy tiếp tục nhiệm vụ... Đau thương nhất là sáng 31-10-1968, một loạt bom oan nghiệp đã chụp xuống đội hình toàn Tiểu đội: Mười ba thanh nữ tươi xinh/ Tuổi đời non trẻ sắp tròn đôi mươi/ Chỉ còn sót lại một người/ Chị Thông A trưởng, đất vùi còn nông... Sự hy sinh của các chị cùng hàng trăm, hàng nghìn bộ đội, TNXP cùng quân và dân địa phương đã góp phần làm nên Đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước: Hồn thiêng như ánh trăng rằm/ Máu xương liệt sĩ hòa cùng cỏ cây/ Ngàn năm sau, nước non này/ Công ơn ghi tạc những ngày chưa xa/ Truông Bồn tráng khúc hùng ca/ Núi sông vỗ nhịp, nước nhà trường sinh...
Tình cảm chân thành, câu chữ giản dị, đôi khi chỉ như là “văn vần” cho dễ nhớ dễ thuộc. Nguyễn Thanh Tài ý thức điều đó, nên anh không gọi tập “Huyền thoại Truông Bồn” là “trường ca” hay một thể loại nào đó của thơ ca, theo phân định của các nhà lý luận văn học. Bạn đọc có thể coi đây như một cuốn “nhật ký chiến tranh” được viết bằng hồi ức của một CCB từng trải nghiệm chiến tranh và chứng kiến những con người và sự việc đã làm nên “Huyền thoại Truông Bồn”. Cũng có thể coi đây như một thiên “diễn ca lịch sử”, kể về một giai đoạn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tuy nhiên, với sự phân chia bố cục tác phẩm thành 6 chương, “Huyền thoại Truông bồn” đã mang cấu trúc của một trường ca. Cùng đó là tác giả chủ tâm sử dụng các thể loại thơ truyền thống và hiện đại một cách “đắc dụng” trong từng chương - đoạn, phù hợp với nội dung diễn đạt. Đó là thể thơ tự do khi kể chuyện; là thơ lục bát trữ tình khi nói về những hi sinh vô bờ bến; là song thất lục bát mang màu sắc cổ thi để diễn tả trầm tích văn hóa của quê hương; là thể thơ ngũ ngôn gần gũi với dân ca xứ Nghệ... Tất cả kết hợp linh hoạt, tạo nên những hiệu ứng nghệ thuật khá tốt.
Nguyễn Thanh Tài không phải là nhà thơ chuyên nghiệp. Anh chưa là hội viên của một Hội văn nghệ T.Ư hoặc địa phương nào, mà chỉ là thành viên tích cực của một Câu lạc bộ văn chương xã hội hóa có tên là “Miền cổ tích”. Vậy mà ngoài tác phẩm “Huyền thoại Truông Bồn”, anh đã xuất bản 3 tập thơ dài có tên chung là “Sử ta” dạng “diễn ca thông sử” và tập trường ca “Dấu ấn cuộc đời” (Nxb QĐND - 2021) viết về Đại tướng Nguyễn Quyết, được chính Đại tướng lúc sinh thời rất trân quý. Thơ Nguyễn Thanh Tài là những khúc tri ân đồng chí, đồng bào của một tác giả từng là người lính Bộ đội Cụ Hồ.