Tượng đài thơ bất tử

Nguyễn Ngọc Phú 23/07/2025 - 17:36

Có một tượng đài thơ khi viết về đề tài thương binh - liệt sĩ được xây bằng những tác phẩm thơ viết trong những cuộc kháng chiến cứu nước.

Một đất nước mà nhà thơ Huy Cận đã đúc kết: “Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa” hay nhà thơ Nguyễn Đình Thi khẳng định: “Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”, sáng lòa của những tinh hoa văn hóa trong đó có thơ; một đất nước mà nhà thơ Hoàng Trung Thông đã có phát hiện khá tinh tế: “Tôi lại viết bài thơ trên báng súng/ Con lớn lên viết tiếp thay cha/ Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống/ Người hôm nay viết tiếp người hôm qua”.

Đọc lại những bài thơ viết về đề tài thương binh - liệt sĩ, chúng ta bắt gặp những tứ thơ gần giống nhau trong hai thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ, nhưng triển khai theo một cách riêng mang dấu ấn của thời đại, của tâm hồn người Việt trong những hoàn cảnh khác nhau. Ví như bài “Viếng bạn” của Hoàng Lộc và “Mồ anh hoa nở” của Thanh Hải. Cả hai bài thơ đều viết theo thể thơ 5 chữ với lối tự sự, trữ tình. Cũng là nỗi đau nghẹn ngào trước sự hy sinh của đồng đội, nhưng “Viếng bạn” là tác giả chôn cất người đã mất “Hôm nay đã chặt cành/ Đắp cho người dưới mộ”. Còn ở “Mồ anh hoa nở” thì: “Hôm qua chúng giết anh/Xác phơi đầu ngõ xóm”“Mắt trừng còn dọa dẫm/ Thằng này là cộng sản/ Không được đứa nào chôn”. Nhưng khi chúng quay đi thì bà con làng xóm đã đưa anh về yên nghỉ trên đồi cao bất chấp cả lời đe dọa lũ giặc. Và trên nấm mộ của người chiến sĩ đó luôn được đắp lên những bó hoa hồng: “Hoa hồng nở và nở - Hương thơm bay và bay”. Bài thơ của Hoàng Lộc viết trong thời kỳ chống Pháp mộc mạc mà không đơn sơ, lời thơ như chạm khắc ký thác. Còn nhà thơ Thanh Hải viết trong thời kỳ chống Mỹ đã nâng tứ thơ lên trở thành biểu tượng như một tượng đài có vẻ đẹp bất tử...

Đọc bài thơ “Mộ gió” của nhà thơ Trịnh Công Lộc viết về sự hy sinh của những người chiến binh giữ biển đảo không về. Không về cả về thể xác và chỉ có cuộc chiến đấu trên biển mới có những ngôi mộ gió - ngôi mộ mà dưới đó hình nhân được làm bằng đất sét: “Mộ gió đây đất thành xương cốt/ Cứ gọi lên là rõ hình hài” “Chạm vào gió như chạm vào da thịt/ Chạm vào nhói buốt Hoàng Sa”. Có những ngôi mộ gió trên biển đảo khơi xa thì lại có hàng nghìn ngôi mộ vô danh trên dãy Trường Sơn trong bài thơ “Khát vọng Trường Sơn” của nhà thơ quân đội Nguyễn Hữu Quý. Với lối cấu trúc điệp chữ và điệp ý như những điểm nhấn là cả sự day dứt, thiết tha và ngưng đọng: “Mười nghìn tiếng chuông ngân trong im lặng/ Mười nghìn trái tim neo ở đầu nguồn”. Có thể nói bài thơ như chạm khắc một tượng đài trùng điệp trải dài ngút ngàn nhưng không vô vọng với: “Mười ngàn đồng đội nằm rải Trường Sơn/ Mười ngàn hài cốt chưa về khói hương/ Mười ngàn khát vọng cùng về bên nhau...”.

di-tich-thanh-co-quang-tri
Di tích Thành cổ Quảng Trị

Trong các bài thơ viết về thương binh - liệt sĩ, nhưng có sức lan tỏa rộng nhất, dễ thuộc nhất là những bài như “Núi Đôi” của Vũ Cao trong kháng chiến chống Pháp và “Quê hương” của Giang Nam trong kháng chiến chống Mỹ. Cả hai đều kể về câu chuyện tình yêu thật cảm động với một cô gái cụ thể và sự hy sinh trong những hoàn cảnh cụ thể. Với Vũ Cao thì: “Mới đến đầu thôn, tin sét đánh/ Giặc giết em rồi dưới gốc thông/ Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa/ Em sống trung thành chết thủy chung” thì ở Giang Nam: “Giặc giết em rồi quăng mất xác/ Chỉ vì em là du kích em ơi!/ Đau đớn lòng anh chết nửa con người”. Giọng thơ Vũ Cao điềm tĩnh, đau đớn tột cùng nghẹn nuốt vào trong, thì Giang Nam là tiếng kêu xé ruột nghẹn thắt. Có một tượng đài bất tử được dựng lên từ sự hy sinh của hai cô gái đó. Một tượng đài thơ và chỉ có thơ mới lưu dấu mãi trong tâm hồn. Đó là: “Em sẽ là hoa trên đỉnh núi/ Bốn mùa xanh ngát cánh hoa thơm” trong “Núi Đôi” và: “Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất/ Có một phần xương thịt của em tôi” trong “Quê hương”.

Có hai bài thơ thành công của hai nhà thơ nổi tiếng sau này viết khi họ còn là những người lính trực tiếp cầm súng đánh giặc. Và viết về chính sự hy sinh của những người thân của mình, đó là bài “Phan Thiết có anh tôi” của nhà thơ Hữu Thỉnh và “Nấm mộ và cây trầm” của nhà thơ Nguyễn Đức Mậu. Người anh trai của Hữu Thỉnh hy sinh ở Phan Thiết khi cùng mọi người đi lấy nước cho đồng đội: “Anh tôi mất sau loạt bom tọa độ/ Mặt anh còn cách nước một vài gang”. Cái khoảng cách giữa lấy nước (cho sự sống) và cái chết thật mỏng manh: “Vài bước nữa/ Thế mà không thể khác/ Biển màu gì thăm thẳm lúc anh đi”. Còn người bạn thân đồng đội tên là Hùng của nhà thơ Nguyễn Đức Mậu thì: “Nhận cái chết cho đồng đội sống/ Ngực chặn lỗ châu mai Hùng đứng thẳng/ Lửa bén vào áo lính tuổi hai mươi”. Cứ ngỡ ở đây cả hai thi sĩ không làm thơ nữa mà họ chỉ ghi lại, gọi lên những phút giây oanh liệt ấy, những thời khắc lịch sử ấy... để rồi thăng hoa một chiêm nghiệm sự sống hồi sinh từ cái chết hữu hình.

Chiến tranh đã đi qua nhưng khi trở lại dòng sông Thạch Hãn, CCB Lê Bá Dương đã nức nở, thổn thức: “Đò lên Thạch Hãn, ơi... chèo nhẹ/ Đáy sông còn đó, bạn tôi nằm/ Có tuổi hai mươi thành sóng nước/ Vỗ yên bờ, mãi mãi ngàn năm”. Cũng như năm xưa trong kháng chiến chống Pháp nhà thơ - người lính Tây Tiến - Quang Dũng đã từng độc hành khúc tráng ca lẫm liệt bi thiết: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ/ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh/ Áo bào thay chiếu anh về đất/ Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Vâng, máu xương của các anh hùng liệt sĩ đã hóa thân vào mỗi ngọn núi dòng sông đất nước, đã hóa thân vào mỗi trang thơ, trang văn cho các thế hệ mai sau. Đó chính là tượng đài được dựng nên bất tử trong trái tim mỗi người...

Đọc tiếp

Mới nhất

Tượng đài thơ bất tử