Tới đầu xã, khói bụi và mùi khét lẹt từ những lò đúc nhôm tỏa trắng xoá khiến người chưa quen chỉ sau vài phút là cảm thấy tức thở. Phế liệu thu mua về như vỏ lon, các chi tiết máy móc hỏng... được đập bẹp rồi quẳng tất vào chiếc chảo lớn bắc trên lò than cao gần mét, nung chừng một ngày thì ra phôi, đúc thành những “thỏi nhôm”. Vào thời vụ, cả xã có khoảng 200 hộ sản xuất, nhưng chủ yếu tập trung tại làng nghề đúc nhôm truyền thống Mẫn Xá. Tỷ lệ thuận với mật độ và cường độ sản xuất tăng là sự ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng hơn từ việc phân loại phế liệu cho đến khi sản xuất.
Trong quá trình tháo dỡ máy móc cũ hỏng, chất PCB chứa trong dầu thải của các máy biến thế và tụ điện của các hệ thống điện trước đây là một chất hữu cơ rất khó phân hủy. Chất độc này khi xâm nhập vào cơ thể sẽ tích lũy trong các mô mỡ, làm biến đổi gien và có nguy cơ gây ung thư cao. Còn khi sản xuất người ta phải cho một lượng chì nhất định vào để lấy được nhôm nguyên chất. Nhiễm độc chì lâu ngày sẽ dẫn đến đau tê ở đầu ngón chân tay, nhức đầu, suy thận, tổn thương thần kinh ngoại vi, giảm chức năng não bộ... Ngoài ra khói bụi, nồng độ khí CO2 và SO2 luôn vượt quá tiêu chuẩn cho phép gây viêm đường hô hấp cấp, đường tiêu hóa, bệnh phổi...
Chính quyền địa phương đã có dự án tách sản xuất khỏi khu dân cư nhưng rồi không hộ nào chịu đi vì lý do “còn giữ bí quyết”, mà cũng không có hộ nào chịu nộp phạt gây ô nhiễm vì không bóc tách được ai gây ô nhiễm bao nhiêu. Cũng có một vài xưởng lắp đặt hệ thống xử lý khói như Công ty Vạn Lợi nhưng không phải tự nguyện mà do đối tác kinh doanh yêu cầu và chỉ dừng ở việc xử lý khói mà thôi.
Từ năm 1994, Chi cục Bảo vệ môi trường - Sở TN-MT tỉnh Bắc Ninh, đã đặt mạng quan trắc môi trường - không khí tại làng Mẫn Xá để xác định những thông số liên quan đến ô nhiễm và đã có dự án đầu tư hệ thống xử lý khói bụi lắp đặt miễn phí nhưng không thành công vì người dân chưa có ý thức bảo vệ môi trường cũng chính là bảo vệ mình. Hiện nay, Chi cục đã vận động được hai hộ sản xuất tại thôn Mẫn Xá áp dụng thí điểm mô hình xử lý hiện đại. Việc xây dựng hạ tầng do hộ sản xuất lo, còn thiết bị và công nghệ được hỗ trợ miễn phí từ nguồn vốn ODA của Chính phủ Nhật Bản. Tổng chi phi khoảng hơn 200 triệu đồng/hộ sản xuất. Ông Hà Minh Hoạ, Chi cục trưởng Chi cục Bảo vệ môi trường, cho biết: “Được hỗ trợ như vậy mà chúng tôi phải vận động mãi mới được hai hộ. Không biết sau khi lắp đặt họ có sử dụng thường xuyên hệ thống không vì còn liên quan đến chi phí vận hành như: tiền điện, hoá chất, bảo dưỡng, sửa chữa.... Với chi phí như vậy sẽ khó có hộ nào tự bỏ tiền túi ra lắp đặt. Chúng tôi rất mong có “áp lực từ cộng đồng” mạnh hơn để những người chủ xưởng phải suy nghĩ lại. Ví dụ như ở làng Phong Xá (Đông Phong, Yên Phong), do ý kiến quyết liệt của người dân, chúng tôi đã cho cắt điện đình chỉ 20 cơ sở sản xuất, tái chế nhựa. Nhưng ở Văn Môn thì rất khó vì quy mô lớn và tính chất làng nghề của trong xã”.
Xã Văn Môn cũng như rất nhiều làng nghề chế biến phế thải, rác thải trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh rất cần sự quan tâm của các cơ quan chức năng như các chính sách miễn giảm thuế thu nhập, nguồn vốn cho vay với lãi suất ưu đãi... để khuyến khích các cơ sở sản xuất đầu tư công nghệ xử lý chất thải, không khí, hạn chế ô nhiễm. Công bằng mà nói, người dân nơi đây đang góp phần sử dụng hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả nguồn tài nguyên cho cả xã hội nhưng lại phải hứng chịu những hiểm họa từ chính việc làm của mình.
Bài và ảnh: HỒ HƯƠNG