Logo-print CƠ QUAN CỦA TRUNG ƯƠNG HỘI - TIẾNG NÓI CỦA CỰU CHIẾN BINH VIỆT NAM

Lái súng kiếm bộn tiền từ xung đột ở Ukraine

Tiến Thành 31/12/2025 - 22:48

Chưa bao giờ các nhà sản xuất vũ khí phương Tây lại kiếm được nhiều tiền như năm 2024. Cuộc xung đột ở Ukraine đang là cơ hội hiếm có để các lái súng thúc đẩy doanh thu tăng vọt.

 

day-chuyen-san-xuat-vu-khi-cua-hang-northrop-grumman-cua-my
Dây chuyền sản xuất vũ khí của hãng Northrop Grumman của Mỹ.

Nhu cầu vũ khí liên tục tăng tốc

Theo báo cáo của Viện nghiên cứu hòa bình quốc tế Stockholm (SIPRI) về 100 nhà sản xuất vũ khí quan trọng nhất trên toàn thế giới, doanh thu từ việc bán vũ khí và dịch vụ quân sự của các công ty này sau khi điều chỉnh theo lạm phát đạt 679 tỷ USD trong năm 2024, tăng 5,9% so với năm 2023. Căng thẳng địa chính trị tiếp tục gia tăng và đặc biệt là cuộc xung đột ở Ukraine đã khiến nhu cầu vũ khí tiếp tục tăng tốc hơn nữa.

Theo thống kê, các loại vũ khí được cung cấp cho Ukraine kể từ khi cuộc xung đột bắt đầu tháng 2-2022 bao gồm máy bay chiến đấu F-16 của Mỹ và Mirage-5000 của Pháp; xe tăng Abrams của Mỹ, Leopard của Đức, Challenger của Anh; lựu pháo Caesar của Pháp, pháo tự hành Krab của Ba Lan; nhiều hệ thống tên lửa, hệ thống phòng không, xe bọc thép, vũ khí hạng nhẹ, hàng triệu viên đạn và hệ thống chống tăng...

Trong số 100 công ty hàng đầu được liệt kê, Mỹ là quốc gia dẫn đầu với 39 công ty. Riêng nhóm này đã chiếm gần một nửa tổng doanh thu bán vũ khí trên toàn thế giới. Các công ty vũ khí của Mỹ như Lockheed Martin, Northrop Grumman và General Dynamics đã công bố mức tăng trưởng. Tổng doanh thu của họ tăng 3,8% lên 334 tỷ đô la. 23 trong số 26 công ty của châu Âu cũng chứng kiến doanh thu từ vũ khí tăng lên khi lục địa này tăng chi tiêu và nhu cầu hỗ trợ Ukraine. Tổng thu nhập của họ tăng 13% lên 151 tỷ đô la.

Xét về quy mô, ngoại trừ BAE Systems của Anh, các công ty vũ khí lớn nhất thế giới đều là của Mỹ. Đó là Lockheed Martin (sản xuất máy bay chiến đấu F35), RTX (trước đây là Raytheon Technologies, sản xuất động cơ máy bay và drone), Northrop Grumman (sản xuất tên lửa tầm xa), General Dynamics (sản xuất tàu ngầm hạt nhân và tên lửa dẫn đường). 

Lockheed Martin, nhà thầu quốc phòng lớn nhất thế giới, đã nâng dự báo doanh thu và lợi nhuận năm 2025 nhờ nhu cầu bền vững đối với máy bay chiến đấu và đạn dược của hãng trong bối cảnh căng thẳng địa chính trị leo thang. Doanh số bán hàng trong phân khúc hàng không của hãng đã tăng 11,9%, lên 7,26 tỷ USD trong quý 3. Gã khổng lồ hàng không vũ trụ và quốc phòng RTX cũng đã nâng dự báo lợi nhuận và doanh thu cả năm, khi nhu cầu ngày càng tăng đối với tên lửa và dịch vụ của công ty.

Tuy nhiên, các công ty Đức lại đặc biệt thành công, với mức tăng trưởng lên tới 36% nhờ xung đột ở Ukraine. Các tập đoàn quân sự lớn của Đức như Rheinmetall hay Diehl đang chế tạo xe tăng, xe bọc thép chở quân, đạn dược... để lực lượng vũ trang Đức bổ sung cho những vũ khí, khí tài họ đã gửi đến Ukraine dưới dạng viện trợ quân sự, cũng như để trang bị thêm xe tăng, xe chiến đấu bộ binh cho quân đội Đức.

Năm 2024, 4 công ty Đức lọt vào danh sách 100 công ty sản xuất vũ khí hàng đầu bao gồm Rheinmetall, Thyssenkrupp, Hensoldt và Diehl, với tổng doanh thu đạt được là 14,9 tỷ USD. Cuộc xung đột ở Ukraine đã mang lại một lượng lớn đơn đặt hàng, đặc biệt là với các hệ thống phòng thủ trên bộ từ nhà sản xuất Diehl. Đơn đặt hàng đạn pháo 155mm cho Quân đội Đức là đơn đặt hàng đạn dược lớn nhất trong lịch sử công ty này. Rheinmetall cũng đã kiếm được hơn 47% doanh thu từ xe tăng, xe bọc thép và đạn dược.

Cỗ máy kiếm lời béo bở cho giới lái súng.

Có thể nói cuộc xung đột kéo dài ở Ukraine đã biến thành một nguồn lợi nhuận khổng lồ cho cỗ máy chiến tranh của các nước phương Tây. Xung đột, chiến tranh thúc đẩy lợi nhuận và ngược lại, lợi nhuận lại thúc đẩy chiến tranh. Một hệ thống được thiết lập có chủ đích để duy trì xung đột, biến thảm kịch Ukraine thành cỗ máy kiếm lời béo bở cho giới lái súng.

Khi cuộc xung đột kéo dài, các công ty quốc phòng phương Tây có cơ hội đẩy nhanh việc phát triển và thử nghiệm các hệ thống vũ khí thế hệ tiếp theo, coi Ukraine như một “bãi thử vũ khí” cho các nhà sản xuất vũ khí. Ông Daniel Kovalik, một luật sư và nhà hoạt động chính trị người Mỹ về nhân quyền và quyền lao động, cho rằng tổ hợp công nghiệp quân sự Mỹ đã thúc đẩy “các cuộc chiến tranh vì lợi nhuận riêng”, không quan tâm đến hậu quả của chiến tranh, miễn là các nhà sản xuất vũ khí vẫn bán vũ khí. “Họ hài lòng với điều đó”, ông nói.

Việc củng cố ngành công nghiệp quốc phòng từ xung đột Ukraine đang gây ra nhiều lo ngại trong tương lai. Ở Mỹ, từ 51 nhà thầu quốc phòng chính vào cuối Chiến tranh Lạnh, hiện chỉ còn 5 nhà thầu, những người đang gia tăng quyền lực mặc cả với Lầu Năm Góc. Với việc quyền quyết định tập trung vào cấp cao nhất của các tập đoàn khổng lồ này, người ta lo ngại về một hệ thống đầu sỏ khép kín có khả năng định hình không chỉ việc mua sắm mà còn cả việc định hình các cuộc xung đột.

Xung đột ở Ukraine thúc đẩy lợi nhuận cho ngành công nghiệp quốc phòng các nước phương Tây. Nhưng cũng từ cuộc xung đột ở Ukraine, người ta mới thấy những mâu thuẫn giữa Mỹ và châu Âu trong lĩnh vực sản xuất vũ khí. Để hỗ trợ Ukraine, châu Âu ngày càng nhận thức rằng cần phải tự chủ về công nghiệp quốc phòng, không thể dựa mãi vào vũ khí Mỹ. Vì thế, Liên minh châu Âu (EU) đã thông qua kế hoạch tái vũ trang với tốc độ chưa từng thấy. Dự kiến, hơn 900 tỷ euro sẽ được đầu tư vào phát triển năng lực quốc phòng trong mười năm tới thông qua Quỹ Quốc phòng châu Âu và sáng kiến ReArm Europe.

Tuy nhiên, kế hoạch chi hàng trăm tỷ euro này sẽ chỉ ưu tiên cho ngành công nghiệp quốc phòng châu Âu. Tổng thống Pháp Emmanuel Macron đã lên tiếng kêu gọi về nhu cầu “tự chủ chiến lược”, lập luận châu Âu không nên phụ thuộc quá nhiều vào Mỹ về năng lực quân sự. Ông Macron cho biết sẽ thuyết phục các đồng minh châu Âu “đã quen với việc mua hàng Mỹ” hãy chi tiền cho công nghệ châu Âu. Ông nói: “Những ai mua tên lửa Patriots của Mỹ, chúng ta phải cung cấp cho họ tên lửa SAMP/T thế hệ mới của Pháp - Italy. Những ai mua máy bay F-35 của Mỹ, chúng ta phải cung cấp cho họ máy bay Rafale của Pháp”.

Một quy định yêu cầu ít nhất 65% linh kiện vũ khí đủ điều kiện nhận tài trợ phải có nguồn gốc từ châu Âu cũng hạn chế sự tham gia của các nhà sản xuất vũ khí Mỹ. Quy định này còn loại trừ các hệ thống vũ khí do nước ngoài thiết kế, tức là khả năng nước ngoài kiểm soát quá trình chế tạo hoặc sử dụng. Điều này khiến Washington không hài lòng và đang tìm cách gây sức ép để được tham gia vào chương trình mua sắm vũ khí của châu Âu.

Một tác động lớn khác của sự gia tăng doanh thu trong lĩnh vực sản xuất vũ khí là việc chuyển hướng nguồn lực khỏi việc giải quyết các vấn đề toàn cầu cấp bách, từ biến đổi khí hậu đến đói nghèo và dịch bệnh. Các công ty và các quốc gia càng phụ thuộc vào lợi nhuận từ chiến tranh, thì việc chuyển hướng tài trợ sang các ưu tiên cấp bách khác sẽ càng khó khăn hơn. Việc quân sự hóa liên tục nền kinh tế sẽ gây ra cái giá kép: Sinh mạng con người mất đi trong xung đột và những vấn đề tàn khốc chưa được giải quyết.

Đọc tiếp

Mới nhất

Lái súng kiếm bộn tiền từ xung đột ở Ukraine