Logo-print CƠ QUAN CỦA TRUNG ƯƠNG HỘI - TIẾNG NÓI CỦA CỰU CHIẾN BINH VIỆT NAM

Kỷ niệm 64 năm Ngày mở đường Hồ Chí Minh trên biển (23.10.1961-23.10.2025): Chuyện tình sau 4.000 ngày ly biệt

Mai Thắng 01/11/2025 - 20:47

Những người lính Trường Sa, Nhà giàn DK1 hôm nay xa nhà nửa năm, một năm đã là sự hy sinh lớn lao. Nhưng với người lính tàu không số năm xưa, mười năm xa vợ không tin tức, không thư từ, không hẹn ngày về - ấy là cả một phần đời được dành cho Tổ quốc. Chuyện tình của CCB Đỗ Xuân Tâm sau 4.000 ngày ly biệt được xem như những thước phim thấm đẫm nước mắt và tình người.

tau-khong-so-mat-hieu-187-cho-vu-khi-vao-nam-anh-tl
Tàu không số mật hiệu 187 chở vũ khí vào Nam. Ảnh TL

Cuộc chia ly không hẹn ngày trở lại

Tháng 6-1966, con tàu không số mang mật danh 187 của Đoàn 125 Hải quân nhận lệnh vượt biển ra cảng Hậu Thủy (Trung Quốc) để tiếp nhận vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam. Trước chuyến đi, chiến sĩ Đỗ Xuân Tâm xin nghỉ bảy ngày phép để cưới vợ - cô Bí thư chi đoàn Nguyễn Thị Xuân, 21 tuổi, quê ở Đồ Sơn, Hải Phòng.

Đám cưới thời chiến giản dị mà cảm động. Không cỗ bàn, không nhẫn vàng, chỉ có bánh kẹo, thuốc lá Sông Cầu, trầu cau và nụ cười hiền của đôi bạn trẻ. Cô dâu mặc áo trắng, quần lụa; chú rể trong bộ quân phục xanh nõn chuối, giày vải. Hoa cưới không có, chỉ một chiếc túi vải bốn quai đựng gương và lược - kỷ vật nhỏ bé của hạnh phúc. “Đám cưới nghèo nhưng lòng vui khôn xiết, bởi chúng tôi có tình yêu và niềm tin ở ngày mai đất nước thống nhất” - ông Tâm bắt đầu kể lại chuyện tình đẹp đẽ năm xưa.

Ba ngày sau lễ cưới, ông nhận lệnh lên đường. Giữa con ngõ nhỏ, chị Xuân nghẹn ngào tiễn chồng, nước mắt hòa trong tiếng sóng. “Anh đi không hẹn ngày về, nhưng em hãy tin, anh sẽ sống và luôn ở bên em” - Tâm nói. Nhìn sâu vào mắt chồng, Xuân thì thầm: “Anh không hẹn, nhưng em sẽ chờ”. Tâm khoác ba lô bước đi giữa mùa hè năm ấy, mang theo lời hứa và cả tuổi xuân của người vợ trẻ...

ccb-do-xuan-tam-1103
CCB Đỗ Xuân Tâm.

Giữa biển lửa và lòng kiên trung

Ngày 11-6-1966, tàu 187 rời bến Cống Đông (Quảng Ninh). Trên tàu có 18 cán bộ, chiến sĩ: Thuyền trưởng Phan Xã, Chính trị viên Lê Công Thương, cố vấn Dương Tấn Kịch, chiến sĩ nấu bếp Đỗ Xuân Tâm...

Trải qua 8 ngày lênh đênh trên hải phận quốc tế, tàu tiếp cận vùng biển Côn Đảo thì bị máy bay địch phát hiện. Chúng sà thấp, chụp ảnh. “Tôi đang nấu ăn, thấy rõ khuôn mặt tên phi công. Tôi còn cầm chiếc đùi gà giơ lên, hắn nhìn tôi rồi cười” - ông Tâm nhớ lại, nụ cười hiền mà thấm đẫm sự từng trải.

Đêm 19-6, tàu dự định cập bến Vàm Ba Động nhưng bị nhầm hướng, lại bị địch lùng sục. Vừa tìm được ghe ngư dân hỏi đường, máy bay Mỹ bất ngờ ập tới, thả pháo sáng và bắn xối xả. Trước tình huống nguy cấp, thuyền trưởng Phan Xã ra lệnh hủy tàu để giữ bí mật con đường vận tải chiến lược. Các chiến sĩ nhảy xuống biển, vừa bơi vừa đánh trả, tìm cách vào bờ.

Sau đó, đồng chí Tư Mau (tức Phan Văn Nhờ - Đoàn phó Đoàn 962, Quân khu 9) chỉ đạo dùng hai khẩu DKZ bắn phá, con tàu bốc cháy giữa biển trời phương Nam - ngọn lửa thiêng liêng minh chứng cho tinh thần “quyết tử giữ bí mật tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển”.

Sau chuyến đi đó, ông Tâm cùng đồng đội được lệnh hành quân bộ sang Campuchia rồi trở lại vùng rừng đước Cà Mau. Cuộc sống trong rừng sình lầy khắc nghiệt, muỗi vắt, sốt rét, thiếu thốn đủ bề. Mười năm trời, họ hoàn toàn mất liên lạc với miền Bắc. “Ngày ấy, chúng tôi không được phép ghi tên, quê quán. Tất cả đều là bí mật. Tôi nhớ vợ đến cháy lòng mà không dám viết một dòng” - ông Tâm kể.

Còn chị Xuân, sau ngày tiễn chồng, nhiều lần tìm đến Đoàn 125 hỏi tin, nhưng chỉ nhận được một câu ngắn ngủi: “Đồng chí đang công tác xa nhà”. Nhiều đêm, chị ngồi bên cửa sổ, nghe tiếng sóng Đồ Sơn mà lòng thắt lại. Người vợ trẻ vẫn tin chồng mình còn sống, vẫn kiên nhẫn đợi chờ giữa bom đạn miền Bắc. Còn ông Tâm thì xúc động hồi tưởng lại: “Tôi nghe đài nói Hải Phòng, Quảng Ninh bị bom Mỹ tàn phá, tim tôi đau thắt. Chỉ mong vợ còn sống để một ngày được gặp lại”.

Từ ngày chia tay (3-3-1965) đến khi đất nước thống nhất (1975), họ bặt tin nhau tròn mười năm - quãng thời gian dài hơn cả một đời tuổi trẻ.

Cuộc trùng phùng không hẹn trước

Tháng 6-1975, một chiếc xe U-oát dừng trước cổng đơn vị. Một người phụ nữ tay cầm nón lá bước xuống. “Tôi chết lặng... đúng là vợ mình!” - ông Tâm kể, giọng run run.

Không ai nói được lời nào. Giữa tiếng vỗ tay reo mừng của đồng đội, họ chỉ biết ôm chầm lấy nhau. Bao nhiêu nước mắt dồn nén suốt mười năm ròng, giờ hóa thành im lặng.

Sau này, khi ông hỏi: “Sao khi gặp lại, em không khóc?”, bà Xuân mỉm cười: “Từng ấy năm em đã khóc thầm, nước mắt đã lặn hết vào tim rồi”.

Nói về quãng đời xa cách ấy, ông Tâm bảo: “Mười năm đợi chờ là thước đo lòng chung thủy. Ngày ấy, tình yêu lớn nhất là dành cho Tổ quốc; còn tình riêng, chúng tôi chỉ giữ trong tim. Nhưng đến giờ, tình yêu ấy vẫn vẹn nguyên như ngày mới cưới”.

Đọc tiếp

Mới nhất

Kỷ niệm 64 năm Ngày mở đường Hồ Chí Minh trên biển (23.10.1961-23.10.2025): Chuyện tình sau 4.000 ngày ly biệt