CƠ QUAN CỦA TRUNG ƯƠNG HỘI - TIẾNG NÓI CỦA CỰU CHIẾN BINH VIỆT NAM Khoảng 60% trẻ khuyết tật tại Việt Nam được tiếp cận giáo dục hòa nhập, nhưng nhóm trẻ tự kỷ vẫn là những em chịu thiệt thòi nhiều nhất. Đằng sau những lớp học rộn ràng tiếng trống là hàng nghìn đứa trẻ đứng ngoài cánh cửa lớp – không phải vì không muốn học, mà vì hệ thống học đường chưa sẵn sàng để đón nhận sự khác biệt của các em.
Sáng đầu tuần tại một trường tiểu học ở thành phố Hồ Chí Minh, chị Nguyễn Thị Hạnh đưa con trai sáu tuổi đến đăng ký học hoà nhập. Hồ sơ khám ghi rõ: “rối loạn phổ tự kỷ nhẹ, có khả năng giao tiếp, cần hỗ trợ.” Nhưng lời phản hồi từ cô hiệu trưởng khiến cả mẹ và con quay bước: “Lớp đông quá, cô sợ không đủ người kèm. Chị thông cảm cho cô…”
Cậu bé rụt rè hỏi mẹ: “Con sẽ được học à?” – một câu hỏi giản dị mà như khắc sâu nỗi buồn khi cánh cửa học đường vẫn khép hờ.
Theo số liệu từ Bộ Giáo dục và Đào tạo, Việt Nam hiện có khoảng 1 triệu trẻ khuyết tật trong độ tuổi đi học, nhưng chỉ khoảng 60% được đến trường. Trong số đó, trẻ rối loạn phổ tự kỷ là nhóm ít được tiếp cận giáo dục hoà nhập nhất. Một khảo sát quy mô quốc gia do Viện Tâm lý học công bố cho thấy tỷ lệ rối loạn phổ tự kỷ ở trẻ mầm non Việt Nam là 0,758% – tương đương hơn 200.000 trẻ. Nếu không được can thiệp sớm và học trong môi trường phù hợp, các em sẽ rất khó hòa nhập cộng đồng, kéo theo hệ lụy xã hội và kinh tế lâu dài.
Hệ thống giáo dục hòa nhập ở Việt Nam đã hình thành hơn hai thập kỷ, song “được nhận học” chưa hẳn “được học thật”. Nhiều trẻ tự kỷ được sắp xếp vào lớp bình thường nhưng ngồi tách biệt, không theo kịp bài và dần trở nên cô lập.
Theo Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, hơn 70% giáo viên tiểu học chưa từng được đào tạo kỹ năng dạy trẻ rối loạn phát triển. Phần lớn chỉ dựa vào kinh nghiệm, thiếu tài liệu hướng dẫn, và gần như không có trợ giảng hỗ trợ hành vi. Cả nước hiện chỉ có vài cơ sở đào tạo giáo viên giáo dục đặc biệt, cung cấp chưa đến 300 cử nhân/năm, trong khi nhu cầu thực tế gấp hàng chục lần.
“Giáo dục hòa nhập không thể chỉ bằng lòng tốt,” PGS.TS.BS. Nguyễn Tuấn Hưng, nguyên Vụ Phó Vụ Tổ chức Cán bộ – Bộ Y tế, Chủ tịch Hội Công tác xã hội (CTXH) ngành y tế, nhận định. “Chúng ta đã nói nhiều đến hòa nhập, nhưng điều kiện thực tế lại chưa theo kịp. Trẻ được nhận vào trường, nhưng giáo viên không được đào tạo, trường không có người hỗ trợ, chương trình không điều chỉnh. Như vậy, các em chỉ ‘hiện diện’ chứ chưa thật sự được học.”
PGS.TS.BS. Nguyễn Tuấn Hưng đề xuất bốn nhóm giải pháp cấp thiết:
Một là, Đào tạo lại đội ngũ giáo viên hiện hữu, lồng ghép kỹ năng dạy trẻ rối loạn phát triển vào các chương trình tập huấn thường niên. Tăng biên chế trợ giảng hoặc tình nguyện viên hỗ trợ trong lớp, giúp giáo viên chủ nhiệm giảm áp lực.
Hai là, Xây dựng bộ hướng dẫn chuẩn về hòa nhập, để nhà trường có căn cứ triển khai và đánh giá.
Ba là, Xây dựng quy trình, cách tiếp cận và đào tạo cán bộ làm Công tác xã hội tại các cơ sở y tế trên cả nước có vai trò trong việc hỗ trợ trẻ tự kỷ bằng cách giúp trẻ phát triển kỹ năng giao tiếp và hòa nhập xã hội qua việc hỗ trợ gia đình tiếp cận nguồn lực và dịch vụ, và thúc đẩy sự thay đổi nhận thức của cộng đồng qua đó giúp trẻ cải thiện khả năng tương tác, học tập và tăng cường sự độc lập tốt hơn.
Bốn là, quan trọng hơn cả, là tăng cường mối liên kết giữa Y tế - Giáo dục - Gia đình - Cộng đồng. Theo PGS.TS.BS. Nguyễn Tuấn Hưng, trong bối cảnh quản lý hành chính hai cấp, sự phối hợp giữa bốn trụ cột này là điều kiện tiên quyết để đảm bảo chuỗi hỗ trợ cho trẻ tự kỷ không bị đứt đoạn. Ông khẳng định: “Trẻ tự kỷ không chỉ cần một ngôi trường, mà cần một hệ sinh thái đồng hành - từ sàng lọc, chẩn đoán, can thiệp đến học tập và hòa nhập.”
Ở cấp tỉnh, các sở, ngành phải được giao cơ chế liên thông dữ liệu và trách nhiệm rõ ràng: Sở Y tế phụ trách phát hiện sớm, lập hồ sơ hỗ trợ cá nhân; Sở Giáo dục chuyển hồ sơ đó thành kế hoạch học tập cá thể; các đơn vị phụ trách nhân lực và an sinh xã hội đảm bảo chính sách trợ giúp; và ngân sách địa phương cần bố trí dòng chi riêng cho can thiệp sớm.
Ở cấp cơ sở, trạm y tế, trường học và nhóm phụ huynh nòng cốt phải được kết nối định kỳ để theo dõi tiến triển của trẻ, điều chỉnh phương pháp can thiệp và phổ biến nhận thức đúng đắn trong cộng đồng. “Khi bốn mắt xích này vận hành nhịp nhàng, trẻ tự kỷ sẽ không còn là gánh nặng, mà là công dân đang được đầu tư để phát triển năng lực của chính mình,” ông nói.
Dù Việt Nam đã ký Công ước Liên Hợp Quốc về quyền người khuyết tật và ban hành Luật Người khuyết tật (2010), đến nay vẫn chưa có hướng dẫn riêng cho nhóm trẻ tự kỷ. Trong văn bản pháp luật, các em vẫn được xếp chung vào nhóm “khuyết tật trí tuệ”, khiến việc triển khai chính sách trở nên lúng túng.
Theo UNICEF Việt Nam, chỉ 20% trẻ tự kỷ được học trong môi trường phù hợp; phần còn lại theo học tại các trung tâm tư nhân với chi phí từ 5-15 triệu đồng/tháng, vượt xa khả năng của đa số gia đình. Ở nông thôn, con số gần như bằng không.
Ông Trương Sỹ Bình, nguyên Hiệu trưởng Trường Tiểu học tại Vĩnh Linh (Quảng Trị), người có hơn 30 năm làm công tác quản lý, thẳng thắn chia sẻ: “Chúng tôi từng cố gắng nhận học sinh tự kỷ, nhưng sĩ số lớp đã 45-50 em, giáo viên không được đào tạo đặc biệt, không có trợ giảng. Nếu muốn hòa nhập thật, phải có cơ chế thật - hỗ trợ thật. Không thể chỉ dựa vào lòng thương.”
Theo ông Bình, rào cản lớn nhất không phải là thái độ của giáo viên, mà là thiếu cơ chế hỗ trợ và đào tạo đồng bộ. Các lớp chuyên biệt ít, giáo viên kiêm nhiệm nhiều, khiến việc dạy hòa nhập chủ yếu tự phát, thiếu bền vững.
Cùng quan điểm ấy, PGS.TS.BS. Nguyễn Tuấn Hưng, cho rằng: “Nếu không có chính sách quốc gia về giáo dục cho trẻ tự kỷ, mọi nỗ lực riêng lẻ đều chỉ là vá víu. Cần có chương trình liên ngành giữa y tế - giáo dục - an sinh xã hội để sàng lọc sớm, can thiệp đúng và dạy học phù hợp.”
Trong khi đó, ở Đà Nẵng, một số mô hình xã hội hóa đang tạo tín hiệu tích cực. Trung tâm Ngân Phong, do ông Trương Văn Dũng phụ trách, đã trở thành điểm kết nối giữa phụ huynh, giáo viên và cộng đồng.
“Hòa nhập không chỉ là cho trẻ ngồi cùng bạn,” ông Dũng nói, “mà là để giáo viên hiểu, bạn bè chấp nhận và phụ huynh đồng hành. Khi xã hội coi tự kỷ là khác biệt chứ không phải khiếm khuyết, giáo dục mới thật sự bao dung.”
Trung tâm này thường xuyên mở lớp tập huấn cho giáo viên mầm non và phụ huynh, hướng dẫn nhận biết sớm dấu hiệu rối loạn và cách ứng xử tích cực. Tuy nhiên, ông Dũng thừa nhận: “Chúng tôi có thể làm hết sức, nhưng nếu không có chính sách và nguồn lực quốc gia, thì những nỗ lực này chỉ là giọt nước giữa biển lớn.”
Một nền giáo dục thật sự nhân văn không được đo bằng số trường đạt chuẩn, mà bằng việc có bao nhiêu đứa trẻ được đón nhận và phát triển theo khả năng của mình. Khi những đứa trẻ tự kỷ vẫn phải đứng ngoài cánh cửa lớp, đó không chỉ là câu chuyện của ngành giáo dục, mà là thước đo cho lòng bao dung của xã hội.
Mở những cánh cửa học đường hôm nay không chỉ vì vài đứa trẻ đặc biệt, mà vì chính tương lai chung - nơi mọi đứa trẻ đều có quyền được học, được lớn lên và được tôn trọng.