2/9

Không chủ quan với bệnh suy tim

 Minh Anh 07/08/2025 - 12:16

Suy tim là tình trạng tim không đủ khả năng bơm để cung cấp máu đảm bảo cho các nhu cầu hoạt động của cơ thể. Theo ước tính, hiện Việt Nam có khoảng 1,6 triệu người bị suy tim.

skds-1604-2
Ảnh minh họa.

Bệnh suy tim vô cùng nguy hiểm

Suy tim là bệnh vô cùng nguy hiểm và dẫn đến nhiều biến chứng có thể là suy giảm chất lượng cuộc sống và tuổi thọ của con người. Người bệnh không thể làm việc được, thậm chí không thể tự chăm sóc bản thân. Suy tim giai đoạn cuối cần có người hỗ trợ chăm sóc bệnh nhân liên tục. Rối loạn nhịp: Bệnh nhân dễ bị rung nhĩ hay rối loạn nhịp thất. Rung nhĩ làm tình trạng bệnh nặng thêm do giảm lượng máu tim bơm ra thêm 20%, ngoài ra tăng nguy cơ bị đột quỵ thiếu máu não do cục máu đông từ tim chạy lên não. Bệnh nhân suy tim nặng thường có ngoại tâm thu thất, nhịp nhanh thất hoặc rung thất, gây đột tử nếu không được đặt máy phá rung phòng ngừa từ trước.

Suy tim nặng giai đoạn cuối không đáp ứng với điều trị nội khoa nếu không được đặt dụng cụ hỗ trợ tim hoặc ghép tim sẽ dẫn đến tử vong. Đột tử là biến chứng suy tim nguy hiểm có thể xảy ra ở bệnh nhân giai đoạn C và D, ngay cả khi triệu chứng suy tim chưa quá nặng nề.

Nguyên nhân

Tim được chia làm hai phần, bên tim phải (gồm nhĩ phải, thất phải) và tim trái (gồm nhĩ trái, thất trái). Mỗi phần đó có các nguyên nhân khác nhau dẫn đến suy tim. Nguyên nhân dẫn đến suy tim trái như: Tăng huyết áp động mạch; bệnh van tim: Hở van 2 lá, hở hoặc hẹp van động mạch chủ đơn thuần hoặc phối hợp; viêm cơ tim, nhồi máu cơ tim; rối loạn nhịp tim; bệnh tim bẩm sinh. Nguyên nhân dẫn đến suy tim phải, đó là: Bệnh phổi mãn tính (hen phế quản, viêm phế quản mạn, giãn phế nang, giãn phế quản, xơ phổi), nhồi máu phổi, tăng áp lực động mạch phổi tiên phát; gù vẹo cột sống và dị dạng lồng ngực; hẹp van 2 lá; bệnh tim bẩm sinh: Hẹp động mạch phổi, thông liên nhĩ, thông liên thất. Nguyên nhân suy tim toàn bộ: Suy tim trái phát triển thành suy tim toàn bộ; viêm tim toàn bộ do thấp tim, viêm cơ tim; bệnh cơ tim giãn. Nguyên nhân khác: Cường giáp trạng, thiếu vitamin B1, thiếu máu nặng, dò động mạch - tĩnh mạch, do virus hoặc các tác nhân gây nhiễm trùng khác.

Yếu tố thúc đẩy khiến suy tim trầm trọng hơn bao gồm: Chế độ ăn nhiều muối, lạm dụng rượu; không tuân thủ điều trị: bỏ thuốc, uống không đều, tự ý tăng hoặc giảm liều thuốc; thiếu máu, tăng huyết áp, mang thai; dùng thêm các thuốc có thể làm nặng hơn tình trạng bệnh: chẹn canxi, chẹn bêta, kháng viêm không steroid, thuốc chống loạn nhịp (nhóm I, sotalol)...

Biểu hiện

Người bệnh thường khó thở khi gắng sức, khó thở phải ngồi dậy để thở và thường kèm theo ho. Hoạt động thể lực bị giảm từ mức độ nhẹ đến nặng, dễ mệt và yếu sức. Bên cạnh đó sẽ xuất hiện phù hai chân, phù ở mặt hoặc cảm giác nặng mặt. Ngoài ra, người bệnh thường thấy hồi hộp, đánh trống ngực. Giai đoạn nặng, sẽ có gan to, có dịch trong ổ bụng.

Các chuyên gia về tim mạch cho rằng, suy tim có bốn mức độ:

Độ I: Không hạn chế, vận động thể lực thông thường không gây mệt, khó thở hoặc hồi hộp.

Độ II: Hạn chế nhẹ vận động thể lực. Bệnh nhân khỏe khi nghỉ ngơi, vận động thể lực thông thường (như lên cầu thang) làm mệt, hồi hộp, khó thở hay đau ngực.

Độ III: Hạn chế nhiều vận động thể lực. Bệnh nhân khỏe khi nghỉ ngơi, nhưng vận động thể lực nhẹ cũng làm mệt, hồi hộp, khó thở hay đau ngực.

Độ IV: Mất khả năng vận động thể lực, triệu chứng cơ năng của suy tim xảy ra cả khi nghỉ, vận động dù nhẹ đều làm tăng triệu chứng.

Điều trị suy tim

Các biện pháp chung: Điều trị suy tim bằng thay đổi lối sống, theo dõi chặt chẽ và sử dụng thuốc theo đúng hướng dẫn của bác sĩ. Cần điều trị các nguyên nhân gây ra suy tim như bệnh van tim, nhiễm độc giáp, suy giáp, rối loạn nhịp tim, ức chế cơ tim do thuốc, viêm tim cấp, nhồi máu cơ tim, bệnh màng ngoài tim và phì đại thất do tăng huyết áp. Tùy theo mức độ suy tim, các bác sĩ sẽ lựa chọn các biện pháp điều trị như phẫu thuật sửa van, thay van tim, phẫu thuật cầu nối chủ vành, can thiệp mạch vành... Ghép tim là giải pháp cuối cùng khi tất cả các biện pháp khác không hiệu quả.

Thay đổi lối sống: Bên cạnh can thiệp y học, người bệnh cần thực hiện một lối sống lành mạnh để cải thiện sức khỏe tim mạch như: ngưng thuốc lá, rượu, bia; giảm cân ở người béo; kiểm soát huyết áp, lipid, tiểu đường. Hạn chế sử dụng muối (<2g/ngày), nước uống cũng nên sử dụng trong giới hạn hợp lý (< 1,5 lít/ngày). Ngoài ra, bệnh nhân cần lựa chọn những môn thể dục nhẹ nhàng, phù hợp, không cần hạn chế vận động.

Lưu ý: Các thuốc điều trị suy tim phải được tuân thủ rất chặt chẽ và theo dõi thường xuyên bởi các thầy thuốc chuyên khoa tim mạch, người bệnh tuyệt đối không tự ý thay đổi liều thuốc hay bỏ thuốc, tránh những biến chứng cũng như làm tình trạng suy tim nặng hơn.

Đọc tiếp

Mới nhất

Không chủ quan với bệnh suy tim