Đại tá, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Phạm Ngọc Thảo là một trong những điệp viên xuất sắc nhất trong lịch sử tình báo Việt Nam, người đã chọc thủng “tim đen” của chế độ ngụy quyền Sài Gòn trong những năm tháng khốc liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Cuộc đời của Đại tá Phạm Ngọc Thảo là một thiên tiểu thuyết lớn giữa đời thực, trong đó mỗi chương là một vở kịch được dàn dựng hoàn hảo nơi ông đóng vai nhân vật chính, mỗi bước đi là một nước cờ hóc hiểm, và kết cục - dù bi tráng - minh chứng cho lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, với dân tộc, với lý tưởng cách mạng mà ông đã chọn.
Đại tá Phạm Ngọc Thảo, sinh năm 1922 trong một gia đình Công giáo toàn tòng. Cha ông, một đại địa chủ yêu nước giàu có bậc nhất miền Nam thời bấy giờ, kĩ sư trắc địa nổi tiếng mang quốc tịch Pháp. Các anh chị em ruột của ông đều thuộc giới tinh hoa trong xã hội: Quốc tịch Pháp, được du học trời Tây, người trở thành bác sĩ, người làm kỹ sư, luật sư, sống cuộc sống giàu sang phú quý. Ông Phạm Ngọc Thảo đỗ tú tài tại Sài Gòn, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ đã làm chệch hướng bánh xe cuộc đời khi ông không thể sang Pháp du học như anh trai, chị gái mình mà ra Hà Nội học kỹ sư công chính, sau đó quay trở về Sài Gòn làm việc. Năm 1945, hưởng ứng phong trào khởi nghĩa chống đế quốc và thực dân đang sục sôi trên phạm vi cả nước, ông Phạm Ngọc Thảo tham gia đấu tranh giành chính quyền. Khi thực dân Pháp quay lại xâm chiếm Nam Bộ, ông hiên ngang tuyên bố huỷ bỏ quốc tịch Pháp và lên đường ra chiến khu kháng chiến.
Một điểm rất đặc biệt nữa về Đại tá Phạm Ngọc Thảo là ông vừa là con chiên ngoan đạo của Thiên Chúa, vừa là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông đã biết cách khai thác vỏ bọc người dân Công giáo một cách thông minh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ tình báo chiến lược của mình. Trên tất cả, Đại tá Phạm Ngọc Thảo là người dân tộc chủ nghĩa, một người “dân tộc chủ nghĩa đậm chất Nam bộ”.
Sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết năm 1954, Đại tá Phạm Ngọc Thảo không tập kết ra Bắc theo đơn vị mà ở lại miền Nam, nhận một nhiệm vụ đặc biệt “chưa từng có tiền lệ trong công tác cách mạng”- theo lời cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt: Dựa vào thế lực xuất thân từ một gia đình trí thức giàu có theo đạo Công giáo, tạo dựng mối quan hệ với gia đình họ Ngô (anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu đều theo đạo Công giáo) để luồn sâu, leo cao trong chế độ ngụy quyền Sài Gòn ngõ hầu phục vụ yêu cầu tình báo chiến lược, phá hoại chúng từ bên trong.
Hầu hết các nhà tình báo đều làm đúng vai trò, nhiệm vụ là giấu mình, thu thập thông tin, phân tích báo cáo và chuyển về Trung ương. Chúng ta có những huyền thoại tình báo với nhiệm vụ kiểu như vậy: Thiếu tướng Vũ Ngọc Nhạ - ông cố vấn của ba đời tổng thống; Thiếu tướng Phạm Xuân Ẩn - nhà báo Times - đôi mắt Hà Nội giữa lòng Sài Gòn; hay Thiếu tướng Đặng Trần Đức - ông Ba Quốc. Riêng đối với Đại tá Phạm Ngọc Thảo, nhiệm vụ của ông khác hoàn toàn.
Ông Phạm Ngọc Thảo không thu thập thông tin mà hành động. Ông luồn sâu leo cao trong nội bộ địch, khai thác mâu thuẫn từ bên trong (mâu thuẫn giữa phe thân Pháp và phe thân Mỹ, mâu thuẫn giữa các giáo phái, tôn giáo: Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên, Đảng Đại Việt,...), thao túng truyền thông, phân hóa quân đội, tổ chức binh biến và kích hoạt đảo chính. Đó không còn là tình báo thông thường mà là tình báo chính trị chiến lược. Khi giữ chức tỉnh trưởng Kiến Hòa (tỉnh Bến Tre ngày nay), ông Phạm Ngọc Thảo được giao triển khai chương trình ấp chiến lược nhằm quét sạch cơ sở cộng sản nhưng ông đã khôn khéo biến nó thành nơi gieo mầm bất mãn giữa dân chúng với chính quyền bằng cách gây rối nội bộ, tạo va chạm giữa thường dân và binh lính, giữa binh lính với chỉ huy. Ông triển khai cứng rắn ở vùng dễ kiểm soát và để lơi lỏng vùng trọng yếu tạo điều kiện cho cách mạng phát triển. Không cần vũ khí, ông Phạm Ngọc Thảo chỉ cần sử dụng ngòi bút thông qua những mệnh lệnh bằng văn bản và chữ ký đã đủ làm cho nội bộ chính quyền Sài Gòn ngày càng rối tinh rối mù như con nhện bị mắc kẹt trong chính những sợi tơ do mình tạo ra. Không ai đủ tỉnh táo để nhận ra ông Phạm Ngọc Thảo sẽ là mắt xích then chốt kích nổ quả bom chính trị mang tên lật đổ Ngô Đình Diệm vào cuối năm 1963. Một điệp viên có thể leo cao là giỏi nhưng một điệp viên có thể khiến cả chế độ sụp đổ từ bên trong mà không ai biết mình là gián điệp, đó mới là điều đáng khâm phục. Ông Phạm Ngọc Thảo đi thẳng vào hàng ngũ kẻ thù tung hoành hoạt động, trường kì mai phục và độc lập tác chiến vì Tổ quốc cho tới tận lúc hi sinh. Ông không hoạt động bí mật trong lòng địch mà là một phần của bộ máy địch để phá nát nó.
Đại tá Phạm Ngọc Thảo là nhà tình báo đơn tuyến hoạt động trong lòng địch, không có tổ chức chỉ đạo, không có mạng lưới tình báo hỗ trợ, được tùy cơ hành động và không phải báo cáo bất kì một cơ quan nào về phương thức hoạt động, chỉ nhận mệnh lệnh chiến lược từ duy nhất một người - Tổng Bí thư Lê Duẩn: Tìm cách thâm nhập càng sâu càng tốt vào chính quyền Sài Gòn và tùy cơ ứng biến. Khi thấy cần thiết, ông Phạm Ngọc Thảo có thể trao đổi với bất kỳ lãnh đạo nào mà ông tin tưởng. Nhiệm vụ mà ông Phạm Ngọc Thảo được giao nguy hiểm hơn nhiều nhiệm vụ của các nhà tình báo khác, ông như người nghệ sĩ khiêu vũ giữa bầy sói chỉ nhăm nhe chờ cơ hội cướp đi sinh mạng mình. Các điệp viên khác khi gặp rủi ro đều có cơ hội được đưa ra căn cứ an toàn hoặc được tổ chức can thiệp, riêng ông Phạm Ngọc Thảo khi thực hiện đảo chính thất bại năm 1965, ông vẫn ở lại tự mình lên kế hoạch xoay chuyển càn khôn hòng lật ngược thế cờ, tiếc rằng cờ chưa kịp lật thì ông đã hy sinh. Nếu như năm đó ông Phạm Ngọc Thảo đảo chính thành công, ngày thống nhất đất nước có thể đã đến sớm hơn nhưng dòng chảy lịch sử đã định, sự ra đi của ông là mất mát to lớn của cách mạng, để lại nhiều tiếc nuối khôn nguôi.
Đại tá Phạm Ngọc Thảo không giấu giếm quá khứ từng là chỉ huy quân giải phóng trong kháng chiến chống Pháp. Ngược lại, ông không những chủ động công khai lý lịch kháng chiến đó mà còn tự hào quãng đường mình đã theo Việt Minh chống Pháp. Khi mới về làm việc cho chế độ Sài Gòn, ông viết báo để thể hiện khả năng quân sự với đề tài chủ yếu tập trung xây dựng quân đội nhằm gây sự chú ý. Điểm đặc biệt là những bài báo đó gây sốc với giới cầm quyền vì công khai ca ngợi công lao của Việt Minh, cách tổ chức và vận hành quân đội Việt Minh trong kháng chiến chống Pháp, đồng thời lên án những hành vi phi nghĩa của quân đội phản nhân dân. Để tiếp cận gia đình họ Ngô, nguồn gốc trí thức gốc Công giáo đối với ông Phạm Ngọc Thảo là một lợi thế nhưng chưa đủ, ông khôn ngoan biến lý lịch kháng chiến thành lợi thế thứ hai lợi hại hơn do nắm bắt tâm lý anh em họ Ngô rất cần những người kháng chiến cũ hồi chánh trở về phục vụ quốc gia làm hình mẫu lý tưởng để xây dựng chế độ. Họ cần một trí thức có thể làm gương cho những người phản tỉnh, một người Công giáo gốc Nam bộ làm mẫu cho phong trào quốc gia hóa chế độ, và thật trùng hợp ông Phạm Ngọc Thảo đáp ứng tất cả những yêu cầu đó. Cũng phải thừa nhận rằng Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu là những người muốn xây dựng một chế độ quốc gia không cộng sản, nếu không thì ông Phạm Ngọc Thảo khó mà dám lật ngửa bài chơi một ván sòng phẳng đến như vậy.
Thậm chí ngay cả khi đã trở thành cố vấn tin cậy cho anh em họ Ngô trong chính quyền Sài Gòn - những người biết rõ từng chân tơ kẽ tóc trong lý lịch ông Phạm Ngọc Thảo thì chính điều này lại giúp ông dễ dàng thăng tiến, bởi Diệm cần hình ảnh như ông làm nền cho một chế độ chống cộng kiểu mới với vẻ hiện đại, tri thức. Trong khi ông Phạm Ngọc Thảo với thân thế hoàn hảo, đạo hạnh đầy đủ, gốc Công giáo thuần tuý, gương mặt trí thức là quân bài lý tưởng của chính quyền Ngô Đình Diệm thì ở phía bên kia chiến tuyến, ông lại mang một sứ mệnh tuyệt mật từ Tổng Bí thư Lê Duẩn để bắt đầu một ván cờ chính trị không có lệnh quay đầu.
Thời điểm bị sát hại năm 1965, ông Phạm Ngọc Thảo vẫn chưa hề để lộ tung tích. Không ai biết ông là người cộng sản, là tình báo của Hà Nội kể cả những người trong giáo hội Công giáo, trong giới sĩ quan thân Mỹ vẫn tin ông là một trí thức quốc gia. Có lẽ vì vậy mà địch vội vàng bắt và thủ tiêu ông, bởi chúng sợ ông sống, chúng sợ một người không phải cộng sản, không có nhiều quyền lực, không nắm quân đội lại có thể tự tay châm ngòi đảo chính thay triều đổi đại của cả một chế độ.