Tiếp tục Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá XV, sáng 23/6, sau khi thảo luận tại Hội trường, Quốc hội tiến hành thảo luận tại tổ cho ý kiến về Dự án Luật Tương trợ tư pháp về dân sự; Dự án Luật Tương trợ tư pháp về hình sự. Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn tham dự họp tại Tổ 13 gồm Đoàn đại biểu Quốc hội các tỉnh: Hậu Giang, Bắc Ninh, Lào Cai, Đắk Lắk.

Cho ý kiến tại Tổ 13, các đại biểu bày tỏ tán tán thành với chủ trương xây dựng và ban hành Luật Tương trợ tư pháp về dân sự được tách riêng từ Luật Tương trợ tư pháp năm 2007. Việc xây dựng một luật chuyên biệt về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự không chỉ thể hiện tư duy lập pháp tiến bộ, mà còn là giải pháp mang tính chiến lược nhằm tạo lập khuôn khổ pháp lý riêng, phù hợp với tính chất đặc thù và ngày càng phức tạp của lĩnh vực này.

Thực tiễn thi hành Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 cho thấy, các quy định về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự còn bộc lộ nhiều bất cập: thiếu các quy định rõ ràng về giá trị pháp lý của kết quả tương trợ từ phía nước ngoài; chưa có hành lang pháp lý đầy đủ cho các yêu cầu tương trợ phát sinh mới; và vẫn còn hạn chế trong việc nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Do đó, việc ban hành Luật Tương trợ tư pháp về dân sự là yêu cầu khách quan và cấp thiết, nhằm khắc phục khoảng trống pháp lý hiện nay, tạo nền tảng pháp lý đầy đủ, rõ ràng và hiệu quả cho hoạt động hợp tác tư pháp trong lĩnh vực dân sự. Đồng thời, góp phần nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, hội nhập quốc tế và bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng.

Góp ý cụ thể, đại biểu Nguyễn Thị Hà, Đoàn ĐBQH tỉnh Bắc Ninh cho biết, về quy định thẩm quyền yêu cầu tương trợ tư pháp dân sự của Việt Nam tại khoản 4 Điều 15 dự thảo Luật có mở rộng thẩm quyền yêu cầu tương trợ tư pháp dân sự cho “Cơ quan, người có thẩm quyền khác theo quy định của pháp luật Việt Nam”. Việc mở rộng này nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn trong công tác phối hợp quốc tế, giúp đa dạng hoá chủ thể tham gia, từ đó có thể tăng cường khả năng xử lý các yêu cầu tương trợ tư pháp linh hoạt và kịp thời hơn.

Tuy nhiên, trên thực tế, quy định này tiềm ẩn nhiều nguy cơ pháp lý và quản lý đáng lo ngại. Việc mở rộng thẩm quyền một cách chung chung, thiếu cụ thể có thể dẫn đến sự chồng chéo, trùng lặp chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan trong lĩnh vực tư pháp và thi hành án dân sự. Điều này không chỉ làm mờ nhạt ranh giới thẩm quyền mà còn gây khó khăn trong việc xác định trách nhiệm rõ ràng, từ đó làm giảm hiệu quả quản lý nhà nước, thậm chí có thể phát sinh những tranh chấp nội bộ và làm chậm trễ quá trình tương trợ tư pháp.

Hơn nữa, sự thiếu đồng bộ trong quy định về thẩm quyền có thể làm suy giảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, tạo ra những khoảng trống pháp lý và sự mâu thuẫn trong áp dụng pháp luật. Điều này sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến uy tín và hiệu quả hoạt động tương trợ tư pháp của Việt Nam trên trường quốc tế, khi các đối tác nước ngoài có thể gặp khó khăn trong việc xác định đúng cơ quan có thẩm quyền, dẫn đến những hiểu lầm và tranh chấp không cần thiết.

Do đó, đại biểu Nguyễn Thị Hà đề nghị Ban soạn thảo cần tiến hành rà soát kỹ lưỡng, đánh giá tính khả thi cũng như sự phù hợp của quy định này với thực tiễn và các quy định pháp luật hiện hành. Việc này nhằm đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật, tránh chồng chéo và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các cơ quan chức năng trong việc thực hiện nhiệm vụ tương trợ tư pháp dân sự.

Về quy định trả lại hồ sơ yêu cầu tương trợ tư pháp về dân sự của Việt Nam (điểm b khoản 2 Điều 18), đại biểu Nguyễn Thị Hà tán thành với quy định Bộ Tư pháp có thẩm quyền trả lại hồ sơ cho cơ quan yêu cầu trong trường hợp hồ sơ không đầy đủ hoặc không bảo đảm thời hạn theo quy định của điều ước quốc tế có liên quan, hoặc theo quy định của pháp luật nước được yêu cầu. Quy định này góp phần nâng cao trách nhiệm của cơ quan yêu cầu trong việc chuẩn bị hồ sơ đầy đủ, bảo đảm tính chính xác và đúng hạn khi gửi ra nước ngoài.

Tuy nhiên, trên thực tế, theo đại biểu Nguyễn Thị Hà có nhiều trường hợp hồ sơ chỉ thiếu một số tài liệu có thể dễ dàng bổ sung trong thời gian ngắn. Nếu cứ trả lại ngay từ đầu mà không tạo điều kiện để cơ quan yêu cầu kịp thời hoàn thiện thì sẽ dẫn đến việc phải gửi đi gửi lại nhiều lần, gây lãng phí thời gian, chi phí và ảnh hưởng đến tiến độ xử lý vụ việc.

“Cơ quan chủ trì soạn thảo cần nghiên cứu, bổ sung quy định cho phép cơ quan yêu cầu được thông báo để kịp thời hoàn thiện hồ sơ trong thời hạn nhất định trước khi quyết định trả lại. Cách tiếp cận linh hoạt này vừa bảo đảm hiệu quả thực thi, vừa đáp ứng yêu cầu về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tư pháp dân sự”, đại biểu Nguyễn Thị Hà đề nghị.

Cũng quan tâm tới nội dung này, đại biểu Sùng A Lềnh, Đoàn ĐBQH tỉnh Lào Cai đề nghị Ban soạn thảo xem xét bổ sung theo hướng, Bộ Tư pháp phải thông báo rõ lý do trả hồ sơ bằng văn bản kèm hướng dẫn hoàn thiện quy định về thời hạn xử lý và trả hồ sơ. Cho phép cơ quan yêu cầu được sửa đổi, bổ sung và gửi lại hồ sơ, thiết lập cơ chế trao đổi nhanh qua thư điện tử, điện thoại trong trường hợp hồ sơ chỉ thiếu xót nhỏ hoặc là có cơ chế phản hồi, giải trình nếu cơ quan yêu cầu không đồng thuận với việc trả hồ sơ. “Việc bổ sung các nội dung trên là cần thiết để đảm bảo tính minh bạch, tránh chậm trễ, ách tắc, tạo thuận lợi cho quá trình tương trợ tư pháp trong các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài”, đại biểu Sùng A Lềnh nhấn mạnh.

Về tiếp nhận và yêu cầu tương trợ tư pháp về dân sự của nước ngoài trên môi trường điện tử, quy định tại Điều 31, đại biểu Sùng A Lềnh nhận định, đây là điểm mới và tích cực, phù hợp với xu hướng ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động tư pháp hiện nay.

Tuy nhiên, để đảm bảo hiệu lực và giá trị pháp lý của hồ sơ, tài liệu điện tử được tiếp nhận, đại biểu đề nghị bổ sung một khoản quy định rõ hồ sơ, tài liệu điện tử tiếp nhận qua môi trường điện tử có giá trị pháp lý tương đương hồ sơ giấy nếu bảo đảm có chữ ký số hoặc xác thực điện tử theo quy định của pháp luật Việt Nam.

“Lý do là để đảm bảo tính công nhận pháp lý thống nhất trong xử lý, tránh trường hợp cơ quan có thẩm quyền từ chối tiếp nhận hoặc trì hoãn xử lý do nghi ngờ về tính xác thực của tài liệu điện tử”, đại biểu Sùng A Lềnh nêu rõ.

Góp ý đối với Dự án Luật Tương trợ tư pháp về hình sự, đại biểu Trần Thị Vân, Đoàn ĐBQH tỉnh Bắc Ninh bày tỏ cơ bản nhất trí với các nội dung của dự thảo Luật, đặc biệt là việc bổ sung quy định về xem xét yêu cầu liên quan đến hình phạt tử hình (quy định hiện hành không có).

Theo đó, trường hợp nước ngoài yêu cầu Việt Nam không áp dụng hình phạt tử hình hoặc không thi hành hình phạt tử hình để thực hiện yêu cầu tương trợ, Viện KSND tối cao chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành có liên quan đưa ra một trong các thông báo.

Gồm thông báo không áp dụng hình phạt tử hình đối với người có liên quan đến yêu cầu tương trợ nếu người đó thuộc trường hợp không bị kết án tử hình theo quy định tại Bộ luật Hình sự. Thông báo không thi hành hình phạt tử hình đối với người có liên quan đến yêu cầu tương trợ không thuộc trường hợp trên sau khi có ý kiến của Chủ tịch nước trong trường hợp cần thiết.

Trường hợp Việt Nam yêu cầu nước ngoài không thi hành hình phạt tử hình để thực hiện yêu cầu tương trợ, Viện KSND tối cao đề nghị nước ngoài đưa ra cam kết bằng văn bản về nội dung này. Dự luật cũng quy định Viện trưởng Viện KSND tối cao chủ trì, phối hợp với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao và thủ trưởng các cơ quan khác có liên quan hướng dẫn chi tiết nội dung này.

“Đây là quy định mới, tiến bộ, hoàn toàn phù hợp và cần thiết để triển khai thực hiện”, đại biểu Trần Thị Vân nhấn mạnh.

Góp ý cụ thể các điểu khoản trong dự thảo luật, đại biểu Trần Thị Vân đề nghị cần sắp xếp lại bố cục Điều 16 quy định về Cơ quan trung ương trong tương trợ tư pháp về hình sự ngay sau Điều 8 quy định về Phạm vi tương trợ tư pháp về hình sự, nghĩa là sắp xếp theo thứ tự phạm vi rồi đến thẩm quyền để đảm bảo tính logic, thống nhất và phù hợp.

Về tổ chức cho người ở Việt Nam sang nước ngoài để hỗ trợ điều tra, cung cấp chứng cứ (Điều 33), theo đại biểu Trần Thị Vân, quy định này vẫn còn chung chung khi mới chỉ nêu người Việt Nam sang nước ngoài để hỗ trợ điều tra được bảo đảm “an toàn, điều kiện ăn ở, đi lại tại nước ngoài, số tiền trợ cấp hoặc chi phí có thể được hưởng”. Đại biểu đề nghị ban soạn thảo nghiên cứu, cân nhắc quy định rõ nội dung này, hoặc giao cho Chính phủ quy định chi tiết để đảm bảo quyền lợi của người thực hiện hỗ trợ điều tra, cung cấp chứng cứ. Cùng với đó đề nghị nghiên cứu bổ sung các quyền của người được đưa sang nước ngoài để hỗ trợ điều tra như: quyền từ chối, quyền im lặng, quyền được trợ giúp pháp lý, quyền thông báo cho nhân thân... để bảo vệ quyền lợi cho người tham gia tương trợ.

Đối với quy định về chuyển giao tạm thời người đang bị tạm giam hoặc đang chấp hành án phạt tù ở Việt Nam sang nước ngoài để hỗ trợ điều tra, cung cấp chứng cứ theo yêu cầu của nước ngoài (Điều 35), đại biểu đề nghị bổ sung quy định cụ thể về thời hạn chuyển giao tạm thời của người bị chuyển giao theo nguyên tắc không được quá thời hạn tạm giam hoặc thời hạn chấp hành án phạt tù của người đó (tương tự như quy định tại Điều 29, Luật Tương trợ tư pháp về dân sự). Bên cạnh đó đề nghị cần quy định rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong việc giám sát, bảo đảm điều kiện giam giữ ở nước ngoài.

Theo Quochoi