Trên khắp mọi nơi từ thành thị đến mọi miền quê xa xôi hẻo lánh đều tổ chức múa lân. Vào các dịp lễ tết, nhiều đoàn múa lân xuất hiện, làm náo nức lòng người. Ngày xưa con người quan niệm: Nơi nào có đội múa lân biểu diễn là nơi đó sẽ gặp nhiều điều may mắn. Vì thế, ngày nay, múa lân không chỉ xuất hiện vào các dịp lễ tết ở sân đình, sân chùa, sân vận động, đường phố, cổng làng, mà còn lan rộng đến từng nhà. Lân vào nhà nào là lân mang điều tốt lành đến cho nhà đó.
Theo truyền thuyết dân gian: Ngày xửa ngày xưa, lâu lắm rồi, ngày ấy đất nước đang yên vui, thanh bình, tự dưng có một con quái vật khổng lồ (tục gọi là kỳ lân), thân dài ngoằng, có đuôi, mặt dữ tợn, mắt long sòng sọc, miệng to, rộng, há hốc, bốn chân thấp, ngắn, béo núc ních xuất hiện từ biển Đông. Con quái vật khổng lồ thường hút nước ở biển Đông phun khắp làng mạc, ruộng đồng, làm úng lụt, phá hoại mùa màng của dân. Bàn dân thiên hạ đã cử nhiều tráng sĩ tài giỏi chiến đấu kiên cường, dũng cảm nhưng không tiêu diệt được con mãnh thú. Nhân dân bèn lập đền thờ, cúng tế linh đình, cầu xin Ngọc Hoàng thượng đế thương dân mà giúp dân trừ khử con quái vật. Ngọc Hoàng thượng đế thương tình sai Thiên Lôi cầm lưỡi tầm sét xuống hạ giới để đánh dẹp. Qua mấy ngày giao tranh quyết liệt, Thiên Lôi không đánh thắng con mãnh thú. Về sau, Ngọc Hoàng thượng đế sai mời Di Lặc xuống trần gian giả vờ làm ông Địa Linh (Thần Đất) để quy phục Kì lân. Ông Địa Linh cải trang thành thường dân, có khuôn mặt to béo, đầy đặn, hai tai to như tai phật, mắt sáng hiền từ, mặc bộ quần áo nâu sòng, bụng phệ có thắt dây lưng. Ông Địa Linh mượn quạt mo của dân, tay cầm quạt mo phe phẩy, bước đi chậm rãi, uyển chuyển, nhẹ nhàng, dụ dỗ Kì lân. Sau khi Kì lân thuần phục thì ông Địa Linh vời nó lên núi cao cho ăn quả “Bách niên chi thảo”. Khi đã ăn no say, Kì lân nằm rục xuống ngủ khì một giấc suốt mấy ngày liền. Khi tỉnh dậy, nó nằm phục dưới chân ông Địa Linh. Sau đó ông Địa Linh cho Kì lân múa để ăn mừng việc mình vừa quy phục. Mọi người đứng xem thấy hay, về nhà làm đầu kì lân múa chơi. Từ tích này mà điệu múa lân xuất hiện khắp cả nước.
Múa lân cũng có nhiều dạng: múa “Kim Long”, là múa trong các cung vua, phủ chúa, múa “Thanh Long” là múa dành cho các quan trạng đỗ đạt; múa “mẫu xuất lân nhi” dành cho thường dân. Ngày nay, múa lân thường có sự kết hợp với các điệu múa ấy nhưng múa “mẫu xuất lân nhi” được sử dụng nhiều hơn cả.
Công việc sáng tạo, làm ra một con kỳ lân cũng khá công phu. Người ta chọn loại tre, nứa bánh tẻ (không non quá, không già quá) để làm đầu kì lân. Đầu lân hơi tròn, to hơn cái thúng xể, sừng sơn hoặc bọc giấy màu đỏ, mũi sư tử to bè, răng trắng hếu, quanh miệng và cằm dát tua rua kim tuyến lấp lánh ngũ sắc để làm râu, mắt to tròn lồi ra lộ rõ con ngươi sáng long lanh, lông mày đen, rậm, dựng xếch ngược trông dữ tợn. Phía dưới cổ vẽ hình bát quái cũng tô điểm giấy ngũ sắc, đem lại cảm giác thần bí cho người xem. Thân và đuôi được làm bằng tấm vải đỏ hoặc vải vàng có viền tua rua kim tuyến, dài khoảng ba, bốn mét, chiều rộng một mét. Hai người đội lốt lân phải ăn mặc đồng phục, quần áo cùng màu đỏ hoặc vàng như thân và đuôi kì lân để múa. Đội bát tùng đi theo kì lân phải là năm người ăn mặc ngộ nghĩnh, thường là mặc áo vải nâu sòng cũ kỹ, có miếng vá hoặc vải thô, có đeo mặt nạ. Đội bát tùng gồm một ông cầm côn, một ông cầm gậy, một ông cầm chùy, một ông cầm mã tấu và một ông đóng giả Di Lặc là ông Địa Linh, cũng đeo mặt nạ, tay cầm quạt mo, mặc áo quần lĩnh, độn thêm cái rá vào bụng có thắt dây lưng cho bụng trễ ra, bước đi chậm rãi, oai vệ để thu phục kì lân.
Khi múa lân, người ta chọn nơi rộng rãi, cao ráo, sáng sủa, thoáng đãng như sân đình, sân chùa, sân vận động. Người xem đứng vòng ngoài mà reo hò, cổ vũ tán thưởng. Vào cuộc múa, nghe tiếng trống phách nổi lên, đội múa lân xuất hiện. Lúc đầu lân múa vờn những đường cong uốn lượn mềm dẻo rồi lân rạp xuống ba lần ra oai và chào khán giả. Đội bát âm đi theo gồm trống cái, mõ, thanh la, xập xèng nổi lên theo nhịp trống cái. Khi trống cái thúc nổi dồn dập thì điệu múa càng nhanh, những đường múa quanh co uốn lượn càng dẻo, càng đẹp. Hay nhất là động tác kì lân vồ mồi được phô diễn tài tình, đặc tả sự dũng mãnh, dữ dằn của con ác thú. Những động tác nhảy lân cao rồi rục xuống, lúc lắc cái đầu, toàn thân run rẩy tỏ vẻ khoái chí, làm mọi người vỗ tay reo hò ầm ĩ. Khoái nhất là động tác kết thúc: Lân gầm thét, lăn lộn, quậy phá rồi phun lửa. Một đám lửa to phun ra bùng cháy từ miệng lân làm mọi người nhảy lên, vỗ tay reo hò.
Để có điệu múa lân đẹp, người đội lốt lân phải luyện tập tỉ mỉ công phu từng động tác. Phải là người khoẻ lại biết võ nghệ, múa lân mới đạt kết quả cao. Càng ngày những nghệ nhân múa lân càng cố gắng tập luyện để tự hoàn thiện mình, nhằm nâng cao chuyên môn điệu múa lên thành một môn nghệ thuật múa cổ truyền có giá trị.
Ngoài các điệu múa truyền thống quen thuộc như: “Kim Long”, “Thanh Long”, “mẫu xuất lân nhi”, các nghệ nhân đội lốt lân còn kết hợp với múa hiện đại, nhằm tạo ra những điệu múa lân độc đáo, đưa đến cho người xem những động tác mới mẻ, lý thú. Múa lân đã trở thành một thú chơi bổ ích. Múa lân sẽ tồn tại và phát triển mãi mãi để đưa niềm vui, sự may mắn đến cho mọi người, mọi nhà.
ĐẶNG VĂN PHẨM