2/9

Tuyên ngôn Độc lập - Bản hùng ca bất diệt của dân tộc Việt Nam

Thiếu tướng, PGS, TS, NGND. Nguyễn Bá Dương (*) 28/08/2025 - 12:26

Ngày 2-9-1945, trên Quảng trường Ba Đình lịch sử, trước hàng chục vạn đồng bào và sự dõi theo của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thời điểm thiêng liêng ấy đã khắc sâu vào lịch sử dân tộc như một cột mốc vàng son, mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với tự do, hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam.

Tuyên ngôn Độc lập ra đời trong bối cảnh lịch sử đặc biệt với những tình huống đặc biệt. Sau thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân tháng Tám năm 1945, chính quyền cách mạng non trẻ vừa mới ra đời đã phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thử thách: nạn đói, nạn dốt hoành hành, sự chống phá quyết liệt của thù trong giặc ngoài. Trên đất nước ta, quân đội Tưởng Giới Thạch từ phương Bắc tràn vào, quân Anh từ phương Nam kéo tới, thực dân Pháp ráo riết chuẩn bị âm mưu tái chiếm nước ta. Các thế lực thù địch, phản động và tay sai trong nước cấu kết với nhau để tìm mọi cách lật đổ chính quyền cách mạng. Trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, bản Tuyên ngôn Độc lập ra đời không chỉ là lời tuyên bố đanh thép về sự khai sinh của một quốc gia độc lập mà còn là bản hùng ca bất hủ, khẳng định quyết tâm sắt đá của cả dân tộc là không một thế lực nào có thể ngăn đường, cản lối, vì “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

Vì vậy, Tuyên ngôn Độc lập có vị trí, vai trò vô cùng to lớn, tràn đầy sinh khí, thể hiện rõ ý chí của dân tộc anh hùng. Đó là bản tuyên ngôn lập quốc, khẳng định nền độc lập, tự chủ của Việt Nam sau hơn 80 năm thực dân Pháp đô hộ và hàng nghìn năm phong kiến ngoại bang thống trị. Đó là tiếng nói chính nghĩa của một dân tộc anh hùng gửi tới toàn thể nhân loại tiến bộ, thức tỉnh lương tri và kêu gọi sự ủng hộ của các dân tộc yêu chuộng hòa bình trên thế giới đối với Nhà nước Việt Nam non trẻ. Với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn, Tuyên ngôn Độc lập đã bác bỏ mọi luận điệu dối trá của thực dân Pháp khi chúng rêu rao “công lao khai hóa” và tuyên truyền về “tự do, bình đẳng, bác ái” ở Việt Nam, đồng thời chứng minh tính chính danh, chính nghĩa của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.

Tầm vóc và giá trị to lớn của tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập thể hiện ở chỗ: Bác Hồ đã khéo léo trích dẫn những giá trị phổ quát của nhân loại. Ngay mở đầu, Người dẫn Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1791 của Pháp, Người viết: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Từ đó, Người khẳng định chân lý: “Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Với lập luận sâu sắc ấy, Bác Hồ đã nâng vấn đề dân tộc Việt Nam lên tầm nhân loại, biến khát vọng hòa bình, độc lập, tự do của dân tộc ta thành khát vọng chung của mọi dân tộc bị áp bức, là cái đích hướng đến của toàn thể nhân loại tiến bộ.

Giá trị, ý nghĩa của Tuyên ngôn Độc lập vô cùng to lớn, đặc biệt sâu sắc. Đó là bản tuyên thệ thiêng liêng trước Tổ quốc và nhân loại, rằng dân tộc Việt Nam đã đứng lên làm chủ vận mệnh của mình, người dân Việt Nam đã làm chủ đất nước. Tuyên ngôn Độc lập là ngọn đuốc soi đường cho mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt 80 năm qua. Đồng thời, là áng văn chính luận mẫu mực, kết tinh trí tuệ, bản lĩnh và khát vọng cháy bỏng của một dân tộc anh hùng, yêu hòa bình và nhân văn. Với nhân loại, Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam là nguồn cổ vũ, động viên, khích lệ vô cùng to lớn đối với phong trào giải phóng dân tộc, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ xã hội.

Tám mươi năm đã qua, dân tộc Việt Nam đã đi qua những chặng đường lịch sử vinh quang đầy hy sinh, thử thách nhưng cũng hết sức vẻ vang và rất đỗi tự hào. Toàn bộ chặng đường 80 năm đầy tự tin và kiêu hãnh ấy là minh chứng sống động cho sức sống bất diệt của Tuyên ngôn Độc lập, khẳng định rõ:

Một là, độc lập dân tộc đã được giữ vững bằng máu xương, bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam. Ngay sau khi bản Tuyên ngôn Độc lập vang lên, nhân dân ta đã phải cầm súng chống lại thực dân Pháp quay trở lại xâm lược lần thứ hai. Dưới ngọn cờ “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, dân tộc ta đã làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc quân xâm lược Pháp phải ký Hiệp định Geneva, công nhận độc lập, chủ quyền của Việt Nam. Tiếp đó là 21 năm tiến hành cuộc kháng chiến thánh thần chống đế quốc Mỹ, cứu nước với đỉnh cao là Đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, đưa non sông gấm vóc về một mối. Chính sức mạnh của lời thề thiêng liêng trong Tuyên ngôn Độc lập đã giúp dân tộc ta vượt qua mọi kẻ thù xâm lược hùng mạnh nhất để bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia - dân tộc.

Hai là, tự do và dân chủ ngày càng được phát huy, quyền con người được khẳng định. Từ chỗ nhân dân ta bị áp bức, bóc lột dã man, là thân phận người dân nô lệ không có quyền làm chủ, nay quyền con người, quyền công dân đã được hiến định, được bảo vệ và tôn vinh. Trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chúng ta tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Quyền tham gia quản lý đất nước của người dân ngày càng được mở rộng và phát huy, đời sống chính trị, văn hóa - xã hội ngày càng dân chủ, công khai, minh bạch. Đây chính là hiện thực sinh động của tinh thần Tuyên ngôn Độc lập soi sáng: “Dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng... để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

Ba là, mục tiêu ấm no, hạnh phúc ngày càng trở thành hiện thực sinh động trên đất nước Việt Nam. Từ một đất nước nghèo nàn, lạc hậu, thiếu ăn, thiếu mặc, đến nay Việt Nam đã trở thành quốc gia có thu nhập trung bình, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện và nâng cao. Thành tựu xóa đói giảm nghèo, phát triển giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Từ một quốc gia nông nghiệp lạc hậu, chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh, Việt Nam đã trở thành trung tâm sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và công nghiệp, xuất khẩu nhiều mặt hàng quan trọng và có giá trị; đã và đang tham gia ngày càng sâu rộng vào chuỗi giá trị toàn cầu. Tất cả điều đó đều khẳng định độc lập phải gắn với sự thịnh vượng, hạnh phúc của nhân dân - đúng như điều Bác Hồ hằng mong ước.

Bốn là, uy tín và vị thế quốc tế ngày càng được nâng cao. Nếu năm 1945, chính quyền non trẻ còn chưa được nhiều nước công nhận, thì nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia, là thành viên tích cực của hầu hết các tổ chức quốc tế quan trọng. Việt Nam đã nhiều lần đảm nhiệm thành công vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc, tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình quốc tế. Đó là minh chứng rõ rệt cho tư tưởng mà Bác Hồ đã khẳng định: Một dân tộc đã giành được độc lập sẽ góp phần xứng đáng vào bảo vệ nền hòa bình và công lý của thế giới.

Năm là, khát vọng phát triển đất nước giàu mạnh, phồn vinh được khơi dậy và phát huy. Trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta đã xác định mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI đưa Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Khát vọng đó bắt nguồn từ tinh thần Tuyên ngôn Độc lập - một tinh thần không bao giờ chấp nhận làm nô lệ, tụt hậu mà luôn vươn lên để sánh vai cùng bạn bè quốc tế.

Nhìn lại những chặng đường đã qua, có thể khẳng định rằng, toàn bộ những thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam trong 80 năm qua do Đảng lãnh đạo đều bắt nguồn từ việc thực hiện lời thề trong Tuyên ngôn Độc lập. Đó chính là minh chứng hùng hồn nhất, thuyết phục nhất cho giá trị trường tồn của áng văn bất hủ và minh triết Hồ Chí Minh.

 Bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng, đất nước ta đứng trước nhiều thời cơ, vận hội mới nhưng cũng không ít những khó khăn, thách thức. Tuyên ngôn Độc lập tiếp tục là “kim chỉ nam” soi đường cho quốc dân đi.

80 năm đã đi qua, nhưng âm hưởng khí thế hào hùng của Tuyên ngôn Độc lập vẫn vang vọng mãi, như lời hịch non sông khẳng định chân lý bất diệt: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập”. Tuyên ngôn Độc lập không chỉ khai sinh một quốc gia độc lập có chủ quyền mà còn mở ra con đường phát triển của dân tộc Việt Nam - con đường hòa bình, thịnh vượng, nhân văn.

Trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc, mỗi CCB và người dân Việt Nam càng phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, giữ gìn và phát huy giá trị bất hủ của Tuyên ngôn Độc lập, để đất nước ta không chỉ “hòa bình, thống nhất” mà còn “phát triển phồn vinh, văn minh, hạnh phúc”, xứng đáng với khát vọng thiêng liêng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã gửi gắm trong áng văn bất hủ và thiêng liêng.

(*) Uỷ viên Hội đồng Lý luận Trung ương, Phụ trách Nhóm Chuyên gia 35 Quân ủy Trung ương

Đọc tiếp

Mới nhất

Tuyên ngôn Độc lập - Bản hùng ca bất diệt của dân tộc Việt Nam