Logo-print CƠ QUAN CỦA TRUNG ƯƠNG HỘI - TIẾNG NÓI CỦA CỰU CHIẾN BINH VIỆT NAM

Viết tiếp vụ giải phóng mặt bằng ở Quốc lộ 7 (Nghệ An): Khiếu nại dồn dập, đâu là sự công bằng?

Bài và ảnh: Doanh Chính - Thanh Nghĩa 17/09/2025 - 16:02

Sau trường hợp hộ CCB Võ Quang Xuân, nhiều hộ dân khác ở xã Hợp Minh và xã Mỹ Thành (nay là xã Vân Tụ, tỉnh Nghệ An) và một số xã khác tiếp tục gửi đơn khiếu nại liên quan việc bồi thường, giải phóng mặt bằng (GPMB) dự án mở rộng Quốc lộ 7 (QL7). Điểm chung là đất có nguồn gốc sử dụng trước năm 1980, đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ), nhưng không được bồi thường hoặc chỉ được bồi thường một phần.

ban-doc-1610-2
Ông Hùng chỉ cho phóng viên Báo CCB Việt Nam về sự phi lý của tờ đơn hiến đất (thể hiện năm 2018) như xác định của UBND xã và cơ quan GPMB để vin cớ không đền bù. Theo đó, dù nếu có hiến đất thật thì không ai lại hiến phần diện tích bao chiếm cả nửa căn nhà tầng kiên cố đã được xây dựng trước đó nhiều năm... “Chỉ có người điên mới làm như thế” - ông Hùng chua chát nói.

Khiếu nại “nối tiếp” và cách viện dẫn pháp luật thiếu thuyết phục

Hộ ông Nguyễn Trọng Hùng phản ánh: Đất gia đình ông theo bản đồ số 299 là thửa số 66, đến năm 2018 mới được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu. Khi thu hồi đất, huyện Yên Thành cho rằng ông Hùng đã “hiến” 417m2 nên không thuộc diện bồi thường. Tuy nhiên, ông Hùng khẳng định việc ký vào đơn hiến đất chỉ là hiểu nhầm, không có giá trị pháp lý vì chưa có chữ ký của vợ ông - người đồng sở hữu tài sản.

Lý giải về sự hiểu nhầm đó, ông Hùng chua chát nói: “Gia đình tôi mà hiến 417m2 đất thì không khác gì là kẻ điên. Bởi, với diện tích hiến này nếu kéo từ QL7 vào đất của gia đình tôi thì phần đất hiến cắt ngang 1/2 căn nhà 3 tầng hiện nay. Không ai lại có thể đi hiến đất kiểu như thế cả. Mà nguyên nhân sâu xa của vụ việc này bắt nguồn trong một lần đứa con dâu đi làm hồ sơ vay vốn ngân hàng, không hiểu sao khi nó mang hồ sơ về nhà để ký, lại có tờ đơn hiến đất kẹp vào cùng. Nó bảo tôi ký nên tôi cứ thế là ký mà không có đọc các văn bản giấy tờ đó viết nội dung gì” - ông Hùng cho biết thêm.

Theo Điều 35 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, việc định đoạt bất động sản chung của vợ chồng phải có sự đồng thuận của cả hai. Do đó, đơn hiến đất do ông Hùng ký một mình không thể là căn cứ pháp lý để bác quyền bồi thường.

Tương tự, nhiều hộ khác như ông Nguyễn Danh Toàn, ông Nguyễn Bá Diện (xóm 5, Bảo Thành); ông Ngô Văn Mến (chủ sử dụng đất đứng tên Nguyễn Thị Trâm - là mẹ đẻ ông Mến, trú tại xã Viên Thành - cũ) và nhiều hộ dân ở xã Vân Tụ cũng cho biết họ có giấy tờ sử dụng đất từ trước năm 1980, nhưng không được xem xét bồi thường đầy đủ diện tích nằm trong chỉ giới GPMB khi bị thu hồi.

Theo tìm hiểu, các cơ quan chức năng ở huyện Yên Thành (cũ) chủ yếu căn cứ vào bản đồ đo vẽ năm 2005, bỏ qua hồ sơ pháp lý gốc như bản đồ số 299, sổ mục kê, giấy chứng nhận đã cấp. Đây là cách làm khiến nhiều chuyên gia pháp lý cho rằng “chưa chuẩn xác”. Bởi lẽ, bản đồ 2005 đã mặc nhiên trừ đi phần diện tích giải tỏa vật kiến trúc theo Nghị định 36/CP năm 1995, trong khi Nghị định này chỉ quy định về hành lang an toàn giao thông, không hề có quy định thu hồi đất. Nếu lấy số liệu đó làm căn cứ thu hồi, rõ ràng là không đúng bản chất pháp luật.

Người dân lo lắng điều gì?

Điều người dân lo nhất, không chỉ là mất đất mà còn là mất niềm tin. Ông Hùng nói: “Nếu đất có sổ đỏ, có nguồn gốc rõ ràng mà cũng không được bồi thường, thì những hộ dân nghèo, không có điều kiện làm thủ tục giấy tờ sẽ bị xử lý ra sao?”.

Hơn nữa, việc “nhận định sai” về hiến đất hay áp dụng hồ sơ đo đạc bất hợp lý sẽ tạo tiền lệ nguy hiểm cho nhiều dự án khác, khi chính quyền có thể “linh hoạt” diễn giải để cắt bớt quyền lợi hợp pháp của dân.

Nhiều ý kiến của người dân cho rằng, vụ việc này cần có sự vào cuộc giám sát của cấp tỉnh và Trung ương, để bảo đảm công bằng. “Một dự án hàng nghìn tỷ đồng không thể để nảy sinh khiếu kiện dây dưa chỉ vì cách làm máy móc, thiếu minh bạch ở khâu bồi thường” - một CCB ở Hợp Minh khẳng định.

Thiết nghĩ, với người dân, sự minh bạch và công bằng luôn là nguyên tắc sống còn. Việc giải quyết GPMB dự án QL7 cần dựa trên chứng cứ pháp lý rõ ràng, không thể chỉ dựa vào số liệu đo đạc bất cập, viện cớ đất hành lang bảo vệ công trình đường bộ và số diện tích này thực chất đã và đang nằm trên đất có sổ đỏ của người dân được Nhà nước chứng nhận từ 3 thập kỷ trước - chưa từng có quyết định nào thu hồi để không đền bù. Do vậy, UBND tỉnh Nghệ An cần rà soát, làm rõ để trả lại sự công bằng cho người dân nơi đây!

Công tác cắm mốc thiếu nhất quán, nhiều giai đoạn không có hồ sơ bàn giao đầy đủ

Liên quan đến việc cắm mốc lộ giới QL7, tại Văn bản 1193/KQLĐBII - QLĐBTKCHTGT ngày 26-7-2023 của Khu Quản lý đường bộ II cho thấy:

Về mốc chỉ giới: Tại thời điểm cắm mốc năm 2019, các vị trí qua khu dân cư đã được san lấp ngang bằng với QL7, nhưng nhiều đoạn cọc mốc đất đường bộ (địa chính đường bộ - viết tắt ĐCĐB) bị chôn lấp, khó xác định. Việc xác định vị trí mốc ĐCĐB dựa theo hồ sơ, không đo đạc thực tế.

Giai đoạn trước năm 1995: QL7 do Sở Giao thông vận tải Nghệ An quản lý, khi tiếp nhận không có hồ sơ bàn giao nên Khu Quản lý đường bộ II không có cơ sở cung cấp thông tin từ năm 1982 (thời điểm Nghị định 203-HĐBT ban hành) đến năm 1995.

Từ năm 1995 đến tháng 10-2022: Tuyến đường do Khu Quản lý đường bộ II quản lý, chỉ tổ chức cắm mốc ĐCĐB, không cắm mốc lộ giới đường bộ. Đến năm 2019, thực hiện theo Nghị định 11/2010/NĐ-CP và Nghị định 100/2013/NĐ-CP của Chính phủ, vẫn không có mốc hành lang an toàn đường bộ theo Nghị định 203-HĐBT.

Cũng tại Văn bản 1193 của Khu Quản lý đường bộ II cho thấy: Việc cắm mốc đất của dự án QL7 trên địa bàn tỉnh Nghệ An thực hiện theo Quyết định 994/QĐ-TTg (năm 2014) và các quy định liên quan, nhằm xác định rõ đất đường bộ, đất hành lang, phân định trách nhiệm quản lý giữa Bộ Giao thông vận tải và địa phương.

Như vậy có thể thấy: Công tác cắm mốc trên tuyến QL7 thiếu nhất quán, nhiều giai đoạn không có hồ sơ bàn giao đầy đủ, dẫn tới vướng mắc trong xác định nguồn gốc, ranh giới đất khi thực hiện GPMB QL7.

Đáng chú ý, tại Thông tư 213/2000/TT-BGTVT, ngày 31-5-2000, hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định 172/1999/NĐ-CP về thi hành Pháp lệnh bảo vệ công trình giao thông đối với công trình giao thông đường bộ quy định: “Đối với các công trình đã xây dựng từ năm 1982 trở về trước nằm trong hành lang bảo vệ đường bộ theo Nghị định 203/HĐBT và xây dựng từ năm 1999 trở về trước nằm trong phần mở rộng thêm từ giới hạn hành lang bảo vệ đường bộ theo Nghị định 203/HĐBT đến giới hạn hành lang bảo vệ đường bộ theo Nghị định 172/1999/NĐ-CP thì khi phải di chuyển theo yêu cầu nâng cấp, mở rộng đường, sẽ được xem xét giải quyết đền bù theo luật định...”.

Đọc tiếp

Mới nhất

Viết tiếp vụ giải phóng mặt bằng ở Quốc lộ 7 (Nghệ An): Khiếu nại dồn dập, đâu là sự công bằng?