Hòa chung không khí kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9, trong dòng chảy lịch sử hào hùng của dân tộc, có những con người đã âm thầm đóng góp cho đất nước về trí tuệ, vật chất, kể cả sinh mạng nhưng không mưu cầu đáp lại…
Vào buổi sáng cận kề “Tết độc lập” hứng khởi, Tiến sĩ Đỗ Văn Dũng, Chủ tịch Câu lạc bộ Doanh nhân Việt - Nhật, cựu biệt động nhí của Đơn vị K41 (lực lượng vũ trang thanh niên - học sinh thuộc Liên Quận ủy 4, Khu ủy Sài Gòn - Gia Định từ năm 1963 - 1967) say sưa kể cho chúng tôi về những hoạt động của ba má mình, một cặp vợ chồng giàu lòng yêu nước, cam chịu mọi gian khổ, hy sinh, cống hiến cả tài sản và xương máu cho cách mạng. Trong tâm khảm của ông, họ đã để lại cho con cháu đời sau những dấu ấn sâu đậm, thể hiện tinh thần, ý chí quyết thắng của chủ nghĩa anh hùng, dám hy sinh vì đại nghĩa.
Cả gia đình làm cách mạng
Tại căn nhà gỗ cũ kĩ tại phường An Hội Đông, TP.HCM, TS. Đỗ Văn Dũng cho biết, thời kháng chiến chống Mỹ, nơi đây từng là “địa chỉ đỏ” nuôi giấu cách mạng trong lòng địch. Bên trên là xưởng dệt nhưng phía dưới lòng đất là hầm bí mật. Gia đình ông có ba thế hệ làm cách mạng, chú, bác, cô, dì, cậu ruột đều là liệt sĩ. Ông nội tôi, là một trung nông, cùng con trai và con dâu đã cống hiến tất cả tài sản cho cách mạng”, TS. Đỗ Văn Dũng kể về gia đình mình.
Năm 1940, cha ruột là ông Đỗ Văn Luyến được bổ nhiệm làm Trưởng ga Kỳ Lam (ga kế tiếp ga Đà Nẵng), thuộc xã Điện Thọ, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Tại đây, ông Luyến kết duyên với Bà Đỗ Thị Nga, người làng Kỳ Lam. Kể từ đó, hai vợ chồng cùng tham gia kháng chiến chống Pháp. Mẹ ông hoạt động phong trào “Phụ nữ cứu quốc” trong một tổ Tam Tam với lời thề: “sống cùng sống, chết cùng chết, không bao giờ rời nhau”, còn cha ông thì làm Chủ tịch Việt Minh Tổng Đa Hoà, lãnh đạo quần chúng nhân dân cầm gậy tầm vông, giáo mác, đấu tranh với thực dân Pháp, đồng thời làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật tại khu vực Điện Bàn (Quảng Nam).
Tháng 8/1945, cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên cả nước thành công trong 15 ngày, Việt Nam độc lập sau gần 100 năm chịu ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Ngày 2/9, tại quảng trường Ba Đình, trước hàng trăm nghìn đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với toàn thể nhân dân và thế giới, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa độc lập, tự do ra đời.
Năm 1954, sau hiệp định Geneve ký kết, cha ông Dũng được giao nhiệm vụ tổ chức sắp xếp cho những người đi tập kết ra Bắc tại cảng Quy Nhơn, nhưng chuyến tàu Ba Lan cuối cùng đã không đến, ông Luyến về lại quê thì bị địch bắt giam ở nhà lao Vĩnh Điện (Quảng Nam).
Năm 1956, ông Luyến vượt ngục, sau đó được tổ chức chuyển vào tỉnh Sông Bé (cũ) tiếp tục hoạt động cách mạng. Năm 1958, ông liên lạc với vợ, dẫn 2 con nhỏ từ miền Trung vào miền Nam, bí mật làm nhiệm vụ với nhiều vai trò khác nhau như: thầy giáo, thợ dệt. Ông mua căn nhà ở Ngã Năm Chuồng Chó, gần phi trường Tân Sơn Nhất cho cả gia đình sinh sống. Khi sân bay Tân Sơn Nhất mở rộng, gia đình ông Luyến dọn nhà lên xã Thông Tây Hội (nay là phường An Hội Đông, TP.HCM) mở xưởng dệt lấy tên là Nam Thành.
Từ người thợ, tích góp từng đồng mua máy dệt, ông Luyến trở thành chủ xưởng dệt và làm đại diện cho giới tiểu thương tại Phòng Thương Mại và Công Nghiệp Miền Nam, quan hệ làm ăn với giới tư bản để có cơ hội đóng góp cho cách mạng. Từ tiền lời của xưởng dệt, vợ ông nuôi cán bộ, cung cấp vật tư, thuốc men vào chiến khu, còn anh em ông Dũng thì làm giao liên cho lực lượng biệt động thành.
Từ “cậu bé giao liên” đến chiến sĩ cách mạng
Tuổi thơ của Đỗ Văn Dũng gắn liền với hiểm nguy rình rập. Lúc còn nhỏ tuổi, ông đã được tổ chức giao nhiệm vụ làm giao liên trong mạng lưới biệt động thành. Năm 1965, khi mới 13 tuổi, Đỗ Văn Dũng trở thành “mắt xích” quan trọng của mạng lưới biệt động, hoạt động bí mật với đồng chí Tư Thệ, Võ Đình Chung (Út Chung), Trưởng Ban quân sự Quận 3, Khu ủy Sài Gòn – Gia Định (1965 -1967).
Năm 1971, khi vừa học xong lớp Đệ Nhất (lớp 12 bây giờ), ông được đồng chí 5 Xuân (Mai Chí Thọ), Chính ủy Quân khu Sài Gòn - Gia Định giao trọng trách sang Nhật Bản du học ngành kinh tế quốc tế, với kỳ vọng khi trở về sẽ góp phần xây dựng, phát triển đất nước sau chiến tranh.
Tại Nhật, ngoài việc học tập, Đỗ Văn Dũng tích cực tham gia phong trào sinh viên yêu nước. Ông cùng các kiều bào vận động ủng hộ hòa bình, đấu tranh hướng về tổ quốc. Đêm 30/4/1975, chính ông là người trèo tường dẫn đoàn sinh viên đánh chiếm Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại Tokyo - một hành động táo bạo khiến ông bị bắt giam cùng nhiều sinh viên khác.
Vượt qua gian khó, vừa học, vừa làm, vừa hoạt động cách mạng, không một “xu” trong túi nhưng ông đã xuất sắc giành được học bổng quốc gia Nhật Bản, trở thành một trong những người Việt đầu tiên bảo vệ thành công luận án tiến sĩ tại trường đại học danh tiếng ở Nhật (thuộc nhóm “Tokyo Lục Đại Học”).
“Chiến binh” trên mặt trận kinh tế
Năm 1981 khi về nước, TS. Đỗ Văn Dũng nhanh chóng trở thành một trong những trí thức trẻ được tin tưởng. Ông được bố trí làm chuyên viên Sở Ngoại thương TP. Hồ Chí Minh, rồi chuyên viên trong Tổ tư vấn kinh tế cho Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt, Trợ lý giám đốc cho GS.Đinh Xáng (đại biểu Quốc Hội); Giám đốc Công ty Ficonimex (công ty xuất nhập khẩu ngoài quốc doanh đầu tiên tại Việt Nam).
Ông là người tiên phong kết nối giao thương với Nhật Bản, đưa các tập đoàn hùng mạnh nhất của Nhật vào Việt Nam để liên doanh, liên kết, sản xuất, lắp ráp các loại máy móc, thiết bị công nghệ hiện đại như: Honda, Kyocera, Toshiba, Sumitomo; Tập đoàn cơ khí nông ngư nghiệp (Yanmar). Đặc biệt, ông đã tư vấn mua những nhà máy xay xát gạo với giá ưu đãi để đưa về nước sản xuất gạo cho dân ăn, đặt những viên gạch đầu tiên cho ngành xuất khẩu gạo. Chính từ đó, ông đã được Thủ tướng Võ Văn Kiệt tin tưởng giao nhiều trọng trách, hỗ trợ làm chuyên viên cho Tổ Tư vấn kinh tế của Thủ tướng. Ông là một trong những người đầu tiên đề đạt, phát triển xuất khẩu nông - lâm - thuỷ - hải sản, than đá, dầu thô của Việt Nam ra nước ngoài, đem nhiều ngoại tệ về làm giàu cho đất nước. Song song đó, ông cũng tìm hướng ra cho ngành nông sản như: ớt khô, bột nghệ, quế, hồi và các mặt hàng thủ công mỹ nghệ mây tre lá; các sản phẩm lâm sản như trầm hương, gỗ tròn, gỗ chip…v.v.
Lập nghiệp tự thân
Từ không đến có, khi đi học từ 2 bàn tay trắng, vừa làm, vừa học; lúc lập công ty ở Nhật cũng từ hai bàn tay trắng, vậy nhưng bằng sự nhiệt huyết và tận dụng mối quan hệ sẵn có, TS. Đỗ Văn Dũng đã đưa kim ngạch xuất nhập khẩu trong nước từ vài ngàn đô la tăng lên vài trăm triệu đô la, chỉ sau vài năm. Trong đó, có những hợp đồng đem về lợi ích rất lớn cho đất nước...
Sau những thương vụ xuất nhập khẩu thành công, ông tiếp tục công việc kết nối giao thương, làm tư vấn đầu tư cho doanh nghiệp, doanh nhân trong và ngoài nước. Tư vấn xây dựng liên doanh đầu tiên của Việt Nam giữa Nhựa Thiếu Niên Tiền Phong (Hải Phòng) với Nhật Bản, Singapore và Malaysia vào năm 1992, Khu Công nghiệp Thăng Long (Hà Nội) vào năm 1995 và Khu Công nghiệp Sài Đồng B (Hà Nội) năm 1997 và hơn 40 liên doanh khác với nước ngoài trên phạm vi cả nước.
“Dù được chọn là "hạt giống đỏ" cơ cấu vào tổ chức của cơ quan nhà nước, nhưng ông chỉ xin làm doanh nhân để có điều kiện đóng góp nhiều hơn về lĩnh vực kinh tế mà mình đã dày công học tập và nghiên cứu”, TS. Đỗ Văn Dũng nói.
Cống hiến là niềm vui
Ở tuổi ngoài 70, Tiến sĩ Đỗ Văn Dũng vẫn không ngừng cống hiến.Ông tham gia các hoạt động tri ân đồng đội, truyền cảm hứng về tinh thần yêu nước cho thế hệ trẻ.
Từ năm 2012 đến nay, ông làm tư vấn, thuyết trình về kinh tế, tham gia hoạt động của Ban liên lạc Đơn vị K41, Ban liên lạc Cựu cán bộ đoàn Thanh niên Việt Nam, Câu lạc bộ truyền thống kháng chiến, Câu lạc bộ Trái tim người lính Phương Nam, đồng thời ông cũng tích cực tham gia công tác thiện nguyện, giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn.
Trong ngôi nhà ở phường An Hội Đông, nơi từng là căn cứ cách mạng, ông sống bình dị, hằng ngày đúng 6 giờ chiều ông thắp nhang tưởng nhớ Bác Hồ, ông bà, cha mẹ và những liệt sĩ đã hy sinh.
Với ông, một người thành công không chỉ có những thương vụ kinh tế hàng trăm triệu đô la, mà tình làng nghĩa xóm gắn bó, keo sơn mới đáng quý, điều đó thể hiện sự thành công trên mặt trận chiến tranh nhân dân.
Hàng triệu chiến binh đã và đang âm thầm hy sinh xương máu để giành giật từng tấc đất với kẻ thù trong chiến đấu bảo vệ đất nước, và hàng triệu chiến binh trên mặt trận kinh tế đã và đang hy sinh mồ hôi, nước mắt hay ngay cả sinh mạng của mình để đem về nguồn kinh tế dồi dào hơn cho gia đình, Tổ quốc... Họ là những chất kết dính tinh tế và bền vững nhất để đoàn kết một dân tộc đang vươn mình bước vào kỷ nguyên mới! Tiến sĩ Đỗ Văn Dũng |
Từ một biệt động nhí giữa lòng Sài Gòn thời lửa đạn, cho đến nhà kinh tế tiên phong trong thời kỳ mở cửa, hội nhập, đã viết nên một câu chuyện đẹp về lòng yêu nước, trí tuệ và bản lĩnh của “chiến binh” để có một Việt Nam hùng cường và giàu mạnh. Với TS. Đỗ Văn Dũng, hạnh phúc chỉ đơn giản là đồng đội không bao giờ quên nhau, lịch sử chắc chắn cũng sẽ không bao giờ quên, có một thời biệt động thành anh hùng như thế. Lực lượng đặc biệt này là sản phẩm độc đáo từ trí tuệ và tinh thần của cuộc chiến tranh nhân dân vô cùng anh dũng.