Logo-print CƠ QUAN CỦA TRUNG ƯƠNG HỘI - TIẾNG NÓI CỦA CỰU CHIẾN BINH VIỆT NAM

Làm gì để phòng tránh bệnh suy thận?

Bài và ảnh: Hoàng Hà 22/11/2025 - 17:36

Suy thận là tình trạng bệnh khiến thận “yếu đi”, giảm khả năng lọc máu so với trước, làm tích tụ các chất độc trong cơ thể. Suy thận có 2 loại suy thận cấp và suy thận mạn, suy thận cấp diễn biến đột ngột nhưng có thể hồi phục hoàn toàn nếu được điều trị sớm và kịp thời, suy thận mạn tính thì diễn biến dần theo năm, tháng và không hồi phục, điều trị làm chậm tiến triển của bệnh bằng thuốc và chế độ sống.

bac-si-chuyen-khoa-ii-nguyen-thi-huyen-kham-cho-benh-nhan-suy-than
Bác sĩ Chuyên khoa II Nguyễn Thị Huyền khám cho bệnh nhân suy thận.

Bác sĩ Chuyên khoa II Nguyễn Thị Huyền - Trung tâm Thận tiết niệu và Lọc máu, Bệnh viện Bạch Mai cho biết: “Nguyên nhân chính gây bệnh suy thận mạn hiện nay là đái tháo đường (khoảng 40-45%), tăng huyết áp (khoảng 25-30%), viêm cầu thận (khoảng 15-20%). Các nguyên nhân khác... (chiếm từ 10-20%) như thuốc, hóa chất độc cho thận, tắc nghẽn đường tiết niệu mạn tính, nhiễm trùng thận, trào ngược bàng quang - niệu quản, di truyền, lối sống...

Thời gian gần đây, bệnh nhân suy thận điều trị tại Bệnh viện Bạch Mai có xu hướng ngày càng tăng, bệnh nhân trẻ tuổi chiếm tỷ lệ không nhỏ thậm chí tăng dần theo thời gian. Lượng bệnh nhân đái tháo đường có biến chứng thận cũng ngày càng tăng lên. Hiện nay, số bệnh nhân nhiều bệnh nền, nhiều biến chứng cần điều trị thay thế thận tăng, đây là thách thức không nhỏ cho gia đình và toàn xã hội.

Theo bác sĩ Huyền, có nhiều yếu tố khiến bệnh nhân bị suy thận ngày càng tăng như: dân số già hóa (mắc bệnh đái tháo đường, tăng huyết áp nhiều hơn khiến cho bệnh thận mạn tăng theo); lạm dụng thuốc không kê đơn và thuốc nam không rõ nguồn gốc, thuốc có kim loại nặng, corticoid gây độc cho thận; chế độ ăn và sinh hoạt không lành mạnh đồng thời phát hiện bệnh thường quá muộn (70-80% bệnh nhân suy thận mạn được phát hiện khi đã ở giai đoạn 3-4 không thể hồi phục). Ở Việt Nam có đến >50% người suy thận không hề biết mình mắc bệnh cho đến khi phải chạy thận.

Suy thận mạn thường tiến triển âm thầm trong nhiều năm, hầu như không có triệu chứng rõ ràng cho đến khi thận tổn thương nặng không thể hồi phục, nhiều người chỉ phát hiện ra bệnh khi đã ở giai đoạn muộn. Theo ghi nhận, chỉ khi thận đã hư khoảng 70-80% thì đa số bệnh nhân mới phát hiện ra mình bị suy thận, lúc này thận đã không hồi phục được nữa. Có nhiều nguyên nhân phổ biến gây bệnh suy thận dễ bị bỏ qua như huyết áp cao, đái tháo đường, lạm dụng thuốc, viêm cầu thận mạn, lupus, sỏi thận...

Với những người mắc bệnh nền như đái tháo đường, tăng huyết áp thì cần tầm soát ít nhất một lần/năm. Xét nghiệm quan trọng để phát hiện sớm tổn thương thận là: Albumin/Creatinin niệu (ACR) và GFR (Creatinin máu). Nếu phát hiện sớm, can thiệp sớm có thể trì hoãn lọc máu hàng chục năm.

Nếu ACR ≥30mg/g hoặc GFR <90ml/phút chẩn đoán sớm bệnh thận do đái tháo đường, tăng huyết áp, điều trị bảo vệ thận sớm, theo dõi định kỳ 3 - 6 tháng/lần.

Để điều trị suy thận hiệu quả cần phát hiện sớm và can thiệp sớm tại tuyến cơ sở. Điều trị nguyên nhân chính (đái tháo đường, tăng huyết áp, sỏi thận...). Có thể giảm tốc độ tiến triển của bệnh bằng thuốc bảo vệ thận như thuốc ức chế men chuyển, thuốc chẹn thụ thể AT1, SGLT2). Quản lý đa chuyên khoa (Thận, Tim mạch, Dinh dưỡng, Nội tiết). Tư vấn sớm về chuẩn bị lọc máu và ghép thận cho bệnh nhân suy thận mạn. Khi chức năng thận không còn đủ để duy trì cân bằng nội môi (MLCT<15ml/phút - CKD giai đoạn V), cần thay thế chức năng lọc của thận bằng một trong ba phương pháp là: Chạy thận, lọc màng bụng, ghép thận.

Chạy thận nhân tạo không phải là “án chung thân” với bệnh nhân suy thận. Chạy thận không chữa khỏi suy thận nhưng là “phao cứu sinh” giữ cho bệnh nhân sống khoẻ, sống lâu và ổn định. Nếu là suy thận mạn tính giai đoạn cuối thì không hồi phục mà phải chạy thận suốt đời hoặc ghép thận. Nếu suy thận cấp trên nền thận mạn tính thì có thể hồi phục phần nào tránh phải lọc máu hoặc suy thận mạn tính giai đoạn cuối mà ghép thận thành công thì ngừng lọc máu hoàn toàn và sinh hoạt gần như người bình thường.

Trong quá trình điều trị cho bệnh nhân suy thận đã ghi nhận một số sai lầm phổ biến của bệnh nhân khiến cho thận bị tổn thương nặng hơn như: Bệnh nhân tự ý dùng thuốc không theo chỉ định của bác sĩ (tự uống thuốc giảm đau, kháng sinh, thuốc đông y, thuốc nam...); bệnh nhân tự ý bỏ thuốc hoặc dùng không đều (thuốc huyết áp, thuốc tăng hồng cầu...); bệnh nhân tự mua thực phẩm chức năng, thuốc “thải độc thận” thuốc “bổ thận” hoặc dùng thuốc theo mách bảo của người quen. Bệnh nhân ăn mặn, ăn đồ muối chua, đồ chế biến sẵn, ăn quá nhiều đạm như thịt, cá, trứng, sữa..., không kiêng thực phẩm giàu kali, phospho, uống quá nhiều nước hoặc quá ít nước, tin vào ăn chay, uống nước lá thải độc...

Bên cạnh đó, bệnh nhân còn không tuân thủ lịch khám định kỳ, không theo dõi huyết áp, cân nặng, nước tiểu hàng ngày, không xét nghiệm định kỳ. Nghiêm trọng hơn, một số bệnh nhân còn tiếp tục uống rượu bia, hút thuốc lá, lười vận động, ngủ ít, stress kéo dài và không điều trị các bệnh nền như tăng huyết áp, đái tháo đường. Thậm chí, nhiều bệnh nhân suy thận còn có suy nghĩ bị suy thận là “vô phương cứu chữa” nên đã buông bỏ điều trị, số khác lại quá lo lắng, hoang mang đi tìm thuốc “bí truyền” mà không chia sẻ với bác sĩ về thói quen, thuốc đang dùng.

Bác sĩ Huyền khuyến cáo, bệnh nhân cần tuyệt đối tuân thủ theo phác đồ điều trị của bác sĩ, không tự ý dùng thuốc giảm đau, kháng sinh, thảo dược. Kiểm soát các bệnh nền đi kèm như huyết áp, đái tháo đường, mỡ máu, gút, béo phì. Bệnh nhân suy thận cần có chế độ ăn uống hợp lý trên nguyên tắc ít muối, hạn chế đạm, ăn rau quả ít kali, phospho, đủ năng lượng, đủ nước, đồng thời phải theo dõi định kỳ tại chuyên khoa thận. Mọi người nên duy trì lối sống lành mạnh, thể dục nhẹ nhàng 30 phút/ngày hoặc hơn tùy thích nghi của từng bệnh nhân, ngủ đủ 7-8 giờ/ngày, tránh stress, không hút thuốc lá, tránh nhiễm trùng (cúm, viêm gan B...).

Bệnh nhân bị suy thận thì không ăn mặn, không ăn quá nhiều đồ ngọt hay ăn quá nhiều đạm, không nhịn tiểu quá lâu, không uống nhiều rượu bia và không hút thuốc lá. Nên ăn cơm trắng, bún miến, khoai tây (ngâm kỹ, luộc bỏ nước), ăn chất béo lành mạnh như dầu oliu, dầu mè, dầu hướng dương bỏ thực vật không muối. Ăn nhóm rau, quả ít kali như bắp cải, dưa chuột, bí xanh, mướp, su hào, cà rốt, táo, lê, ổi (1/2 quả - 1 quả/ ngày). Ăn trứng, thịt nạc, cá nạc, đậu phụ vừa phải, có thể thêm gia vị hành, tỏi, chanh, tiêu thay cho muối khi chế biến. Uống nước vừa đủ, mùa hè mọi người có thể uống tăng hơn.

Để phòng tránh bệnh suy thận mọi người cần uống đủ nước vì uống đủ nước sẽ giúp làm loãng nước tiểu, loại bỏ các chất độc hại ra khỏi cơ thể và giúp ngăn ngừa sỏi thận, hạn chế đồ uống có cồn, ăn lượng đạm vừa đủ, không nên ăn quá mặn. Cần luyện tập thể dục thường xuyên, không được nhịn tiểu quá lâu, không hút thuốc lá, không tự ý dùng thuốc, theo dõi huyết áp thường xuyên ở nhà. Kiểm tra sức khoẻ định kỳ 3-6 tháng/lần vì bệnh thận thường xảy ra thầm lặng và không gây ra những triệu chứng rõ ràng cho đến giai đoạn muộn nên việc chẩn đoán sớm và phòng ngừa bệnh thận cần được thực hiện đều đặn, đặc biệt là những người có nguy cơ cao như người mắc bệnh đái tháo đường, béo phì, tăng huyết áp, người trên 40 tuổi.

Đọc tiếp

Mới nhất

Làm gì để phòng tránh bệnh suy thận?