2/9

Kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám (19.8.1945 - 19.8.2025) và Quốc khánh (2.9.1945 - 2.9.2025) Chủ tịch Hồ Chí Minh với Cách mạng Tháng Tám năm 1945

Anh Minh 17/08/2025 - 11:06

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 có ý nghĩa to lớn đối với cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng thế giới. Làm nên cuộc Cách mạng vĩ đại này là sự nghiệp của toàn dân đoàn kết, kiên quyết chiến đấu để tự giải phóng, do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo, trong đó lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Chủ tịch Hồ Chí Minh có vai trò đặc biệt quan trọng.

Sau khi lãnh đạo thành lập Đảng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chỉ đạo công tác đào tạo, huấn luyện cán bộ, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, tích cực chuẩn bị cho khởi nghĩa giành chính quyền. Tháng 6-1931, Nguyễn Ái Quốc bị chính quyền Anh bắt giam tại Hồng Kông, đến đầu năm 1933, Người được trả tự do. Từ năm 1934 đến năm 1938, Người nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa tại Matxcơva. Kiên trì con đường, mục tiêu độc lập đã xác định cho cách mạng Việt Nam, Người tiếp tục theo dõi, chỉ đạo phong trào cách mạng trong nước. Tháng 10-1938, Người rời Liên Xô về Trung Quốc bắt liên lạc với tổ chức Đảng, mở lớp huấn luyện chính trị để chuẩn bị cán bộ đáp ứng yêu cầu tình hình nhiệm vụ mới. Qua các tài liệu huấn luyện, Người nêu rõ sự nghiệp giải phóng dân tộc là sự nghiệp chung của các dân tộc, các giai cấp bị bóc lột ở Đông Dương. Toàn thể nhân dân Đông Dương không phân biệt dân tộc nào, giai cấp nào đều phải đồng tâm hiệp hội đoàn kết cùng nhau mới làm nổi.

chu-tich-ho-chi-minh-tham-lai-dinh-tan-trao-tuyen-quang-nam-1961
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm lại Đình Tân Trào (Tuyên Quang) năm 1961.

Ngày 28-1-1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước sau 30 năm xa Tổ quốc. Sau một thời gian chuẩn bị, với danh nghĩa đại diện của Quốc tế Cộng sản, Người triệu tập Hội nghị T.Ư 8 (từ ngày 10 đến 19-5-1941), tại Pác Bó (Cao Bằng). Tham dự Hội nghị có các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Phùng Chí Kiên... và một số đại biểu hoạt động ở nước ngoài.

Trên cơ sở đánh giá tình hình giai cấp và xã hội Việt Nam trong hoàn cảnh chiến tranh thế giới, với quan điểm lý luận gắn với thực tiễn cách mạng, Nguyễn Ái Quốc nêu cao vấn đề giải phóng dân tộc, coi đó là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng.

Với tầm nhìn chiến lược thấu đáo, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Ban Thường vụ T.Ư Đảng quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Mặt trận Việt Minh ngày 19-5-1941. Việt Minh có nghĩa là liên minh vì nền độc lập của dân tộc Việt Nam, đoàn kết mọi lực lượng yêu nước, chống đế quốc, giành độc lập dân tộc, không phân biệt dân tộc, giai cấp, đảng phái, tôn giáo...

Tháng 10-1941, Chương trình Việt Minh được công bố và phổ biến rộng trong các tầng lớp nhân dân yêu nước. Chương trình Việt Minh gồm có 10 chính sách về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa nhằm thực hiện hai điều lớn: “Làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập”; “Làm cho nhân dân Việt Nam được sung sướng, tự do”. Chương trình, Điều lệ của Mặt trận Việt Minh đã nhanh chóng đi sâu vào các tầng lớp nhân dân vì nó đáp ứng được nguyện vọng tha thiết của nhân dân.

Dưới sự chỉ đạo, hướng dẫn trực tiếp của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, phong trào Việt Minh đã thâm nhập vào các thôn xóm, bản làng, bám rễ và lớn mạnh không ngừng trong nhân dân các dân tộc tỉnh Cao Bằng. Ngày 6-6-1941, Người gửi “Kính cáo đồng bào” kêu gọi đồng bào cả nước tham gia đánh Pháp đuổi Nhật. Trong “Kính cáo đồng bào”, Người viết: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng. Hỡi đồng bào yêu quý! Việc cứu quốc là việc chung. Ai là người Việt Nam đều phải kề vai gánh vác một phần trách nhiệm: Người có tiền góp tiền, người có của góp của, người có sức góp sức, người có tài năng góp tài năng. Riêng phần tôi, xin đem hết tâm lực đi cùng các bạn, vì đồng bào mưu giành tự do độc lập, dầu phải hy sinh tính mệnh cũng không nề”.

Tháng 8-1942, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc lấy tên là Hồ Chí Minh, đại diện cho Mặt trận Việt Minh và Phân hội Việt Nam thuộc Hiệp hội quốc tế chống xâm lược, sang Trung Quốc tìm sự liên minh quốc tế, cùng phối hợp hành động chống phát xít trên chiến trường Thái Bình Dương. Người bị chính quyền địa phương của Tưởng Giới Thạch bắt giam trong các nhà lao của tỉnh Quảng Tây. Người đã viết tập thơ Ngục trung nhật ký (Nhật ký trong tù) với 133 bài thơ chữ Hán. Tháng 9-1943, Người được trả tự do và cuối tháng 9-1944, Người trở về căn cứ Cao Bằng.

Tháng 10-1944, Hồ Chí Minh có “Thư gửi đồng bào toàn quốc” kêu gọi chuẩn bị triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc. Người nhấn mạnh: “Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các Đồng minh quốc sắp tranh được sự thắng lợi cuối cùng. Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh! Tôi mong rằng các đảng phái và các đoàn thể đều ra sức chuẩn bị cùng nhau thảo luận, để khai cuộc Toàn quốc đại biểu Đại hội trong năm nay. Như vậy thì ngoại viện nhất định cầu được, cứu quốc nhất định thành công”.

Tháng 12-1944, lãnh tụ Hồ Chí Minh chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay.

Ngày 9-3-1945, phát xít Nhật đảo chính hất cẳng Pháp độc chiếm Đông Dương, Chiến tranh thế giới thứ II bước vào giai đoạn cuối với những thắng lợi của Liên Xô và các nước Đồng minh.

Ngày 4-5-1945, Hồ Chí Minh rời Cao Bằng về Tân Trào (Tuyên Quang) sau sự kiện Liên Xô tuyên chiến với Nhật Bản, Mỹ ném bom nguyên tử xuống Hirôsima. Ngày 12-8-1945, Hồ Chí Minh cùng Ban Thường vụ T.Ư Đảng họp quyết định phát động Tổng khởi nghĩa trong cả nước và mở Hội nghị toàn quốc của Đảng. Người viết “Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa”: “Hỡi đồng bào yêu quý! Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới đang ganh nhau tiến bước giành quyền độc lập. Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!”.

Hội nghị toàn quốc của Đảng (họp từ ngày 13 đến 15-8-1945), ra quyết định Tổng khởi nghĩa. Tiếp theo đó, Quốc dân Đại hội họp ngày 16-8-1945, dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh, thể hiện sự đoàn kết toàn dân, đã nhất trí tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa và bầu ra Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam (tức Chính phủ lâm thời) do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, đồng thời quy định Quốc kỳ và Quốc ca của nước Việt Nam mới. Từ Quốc dân Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi Tổng khởi nghĩa. Theo lời kêu gọi của Người, toàn dân ta đã nhất tề đứng dậy làm Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Thắng lợi vĩ đại này đã lật đổ ách thống trị của phát xít Nhật và thực dân Pháp, đưa nhân dân Việt Nam từ thân phận người nô lệ trở thành công dân một nước Việt Nam độc lập, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc: Kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.

Lật giở lại những trang lịch sử hào hùng của dân tộc hơn 80 năm trước, chúng ta càng thấy rõ tầm vóc và ảnh hưởng to lớn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cuộc Cách mạng Tháng Tám. Nhân dân Việt Nam, dân tộc Việt Nam vô cùng tự hào và biết ơn vị lãnh tụ suốt đời hy sinh, cống hiến vì nền độc lập, tự do, hạnh phúc của nhân dân và để lại cho các thế hệ mai sau một di sản tinh thần vô cùng quý báu, đó là tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh mà ngày nay toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang ra sức học tập và làm theo.

Đọc tiếp

Mới nhất

Kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám (19.8.1945 - 19.8.2025) và Quốc khánh (2.9.1945 - 2.9.2025) Chủ tịch Hồ Chí Minh với Cách mạng Tháng Tám năm 1945