CƠ QUAN CỦA TRUNG ƯƠNG HỘI - TIẾNG NÓI CỦA CỰU CHIẾN BINH VIỆT NAM Quê tôi miền Tây, nơi sông nước đỏ phù sa hiền hòa và con người chân chất thủy chung nhân hậu. Trong ký ức tôi, kênh xáng Xà No là huyết mạch giao thương quan trọng đánh thức cả một vùng, đó cũng từng là “con đường lửa” trong kháng chiến với xuồng ghe chở bộ đội xuyên đêm, có những người lính đã anh dũng ngã xuống. Cũng chính nơi này sau chiến tranh lại nở rộ nhiều cánh đồng lúa, khóm ngập tràn tiếng cười hạnh phúc, ấm no hòa bình.
Tôi về thăm Hậu Giang đúng dịp kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Tôi tìm đến xã Thạnh Hòa, huyện Phụng Hiệp (cũ) để gặp CCB, thương binh hạng 2/4 Nguyễn Thanh Quang - người lính kiên cường từng chiến đấu từ năm 1960 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng.
Ông Quang đón tôi bằng nụ cười hiền, giọng nói sang sảng dù đã 81 tuổi. Trong căn nhà mới xây bên bờ sông, ông kể về một thời trai trẻ hiến dâng cho cách mạng đầy tự hào: “Khi 16 tuổi, tôi giấu cha mẹ theo anh em trong xóm đi bộ đội. Trong lòng khi đó chỉ nghĩ gắng hết sức giành lại độc lập, tự do cho đồng bào miền Nam”. Ông được điều về Tiểu đoàn Tây Đô - tiểu đoàn bộ binh đầu tiên của Quân khu 9 (thành lập năm 1964) tại Cần Thơ. Từ rừng tràm U Minh đến đồng nước miệt Phụng Hiệp hay Châu Thành A..., ông tham gia nhiều trận đánh ác liệt, là chiến sĩ cơ yếu đảm nhận nhiệm vụ mã dịch công văn mật, mắt xích quan trọng trong công tác tình báo của ta.
CCB Nguyễn Thanh Quang kể: “Có đêm tôi chèo xuồng qua kênh Xà No mang điện văn từ Phụng Hiệp đến Vị Thanh rồi lại xuôi về vùng căn cứ ở Cần Thơ. Năm 1967, đang chuẩn bị cho chiến dịch Xuân Mậu Thân lộ Vòng Cung thì bị địch bắn ngất xỉu, tưởng đã hy sinh. Đồng đội đưa tôi về bệnh xá Cà Mau nằm điều trị suốt 2 năm”.
Vết thương chưa lành nhưng ông Quang lại xung phong ra trận, lần này là mã thám quân báo hoạt động bí mật trong vùng địch kiểm soát. Vì dáng người nhỏ, lanh lợi nên ông được gọi là “Bé Quang”. Nhờ dáng vóc ấy, ông dễ dàng trà trộn vào hàng ngũ địch lấy tin tình báo phục vụ chiến đấu. Có lần suýt bị bắt khi địch khám xét nhà dân nơi ông ẩn náu hoạt động, ông phải trốn dưới hầm 3 ngày đêm, đói khát nhưng quyết không hề nao núng.
Ký ức sâu đậm nhất của ông là trận đánh giải phóng thị xã Vị Thanh vào ngày 1-5-1975. “Bé Quang” cùng đồng đội được lệnh tiến công các cứ điểm quan trọng như Ty cảnh sát, đồn bảo an, kho xăng Vị Thanh. Địch chống trả dữ dội, xe tăng bắn trả liên hồi... Đến 9 giờ 30 phút sáng, quân giải phóng đã làm chủ hoàn toàn thị xã. Cờ đỏ sao vàng tung bay phấp phới trên nóc trụ sở tỉnh.
Ông nghẹn ngào nhớ lại: “Cảm giác lúc đó khó tả lắm. Sống sót sau bao năm chiến đấu thấy nhân dân ùa ra đường mừng chiến thắng mà nước mắt cứ rơi. Có cô bé ôm chặt lấy tôi khóc sướt mướt hỏi: “Chú ơi hết chiến tranh rồi phải không? - Tôi chỉ gật đầu mà tim như vỡ òa vì xúc động”.
Sau ngày hòa bình, ông Quang trở về làm cán bộ huyện rồi xã, tiếp tục cống hiến xây dựng quê hương. Từ người lính Cụ Hồ, ông trở thành người thầy mẫu mực cho thế hệ trẻ truyền lửa yêu nước và tinh thần cách mạng. Hiện tại, ông làm Phó chủ tịch Hội CCB xã Thạnh Hòa, kiêm Chủ tịch Hội Người cao tuổi, ông luôn tích cực vận động hội viên xây dựng đời sống văn hóa, vun đắp nghĩa xóm tình làng yêu thương đùm bọc nhau... Ông bảo: “Giờ đây còn khỏe tôi chỉ mong góp phần xây dựng quê hương để những hy sinh năm xưa không trở nên vô nghĩa. Tôi tuyệt đối tin vào Đảng và Nhà nước đưa Tổ quốc mình bay cao vào kỷ nguyên mới”.
Với những chiến công, thành tích của mình, ông đã được tặng thưởng 3 Huân chương Chiến sĩ vẻ vang, 2 Kỷ niệm chương chiến sĩ cơ yếu, mã thám.
Khi nghe tôi hỏi: “Có bao giờ ông nghĩ nếu không tham gia kháng chiến thì cuộc đời mình sẽ ra sao?”, “Bé Quang” khề khà nói: Có thể tôi sẽ làm ruộng rồi lấy vợ sinh con báo hiếu cha mẹ. Nhưng với quân xâm lược tàn bạo ai dám chắc được yên thân? Khi đất nước cần tôi không thể ngồi yên. Hòa bình hôm nay là rất xứng đáng với những năm tháng mình đã sống cùng đồng đội chiến đấu oanh liệt, thực hiện lời thề với Đảng “hy sinh đến giọt máu cuối cùng”.
Dòng Xà No nay đã đổi thay với kênh rộng, ghe tàu tấp nập chở khóm, gạo,... Hai bên bờ rợp bóng cây, nhà cửa khang trang. Cánh đồng lúa trải dài xanh mênh mông, hương thơm bát ngát làm lòng người hân hoan... Dòng kênh từng là “tọa độ lửa” giờ đã thành con đường hòa bình chuyên chở hạnh phúc no ấm, giàu đẹp của cả vùng tây sông Hậu.