Bộ đội hướng dẫn bà con dân tộc Mông chăm sóc cây cao su ở Đắk Ngo

Tháng 6, những cơn mưa rào ở TP. Hồ Chí Minh như cào sâu vào nỗi nhớ những cơn mưa rừng ở Đắk Ngo đối với Đại tá, CCB Vũ Văn Mài. Hơn 20 năm trước, anh và đồng đội ở khu kinh tế - quốc phòng (KTQP) Đắk Ngo, huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông đã cùng bà con các dân tộc Mông, Kinh, Mơ Nông khai phá vùng đất hoang vu. Thung lũng Đắk Ngo cuối đại ngàn Tây Nguyên giờ đã là những cụm dân cư trù phú, lắt lẻo tiếng khèn gọi bạn trong các lễ hội được mùa.

Tôi đến Đắk Ngo lần đầu vào tháng 3-2008, khi khu KTQP này đã hình thành được gần 9 năm. Một nơi toàn rừng nghèo hoang vu không có bóng người, dần trở thành những cụm dân cư đông đúc với những nương rẫy trồng điều, trồng cà phê, cao su xanh ngút ngàn.  

Mỗi lần lên đây, tôi hay cùng Đại tá Vũ Văn Mài - Trung đoàn trưởng Trung đoàn 720 (Binh đoàn 16 - Bộ Quốc phòng) la cà xuống các bản Mông để ngất ngây bát rượu ngô với các già làng. Tôi nhớ nhất là già làng Hạng Seo Vảng. Ông là một trong số những người Mông có hiểu biết khi về Đắk Ngo. Những ngày đầu, ông cùng bộ đội vận động đồng bào mình yên tâm xây cái bản mới, trồng cà phê, trồng điều và trồng cây cao su nên được bà con bầu là già làng.

Còn nhớ những năm cuối của thế kỷ XX, người Mông ở một số tỉnh vùng Tây Bắc rủ nhau vào Tây Nguyên tìm cuộc sống mới. Ở Tây Nguyên, họ cũng phải lang thang như con thú hoang trong rừng. Mấy năm đi mòn bàn chân, bạc mái đầu mà người Mông vẫn chưa làm được cái bản mới. Cái đói, cái rét cứ bám đuổi mãi không tha. Không ít người đã phải bỏ mạng nơi rừng thiêng nước độc. Rồi có một ngày, cán bộ tỉnh Đắk Lắk cùng bộ đội Binh đoàn 16 đến vận động bà con đến nơi ở mới. Về đó mọi người sẽ được cấp đất làm nương rẫy, làm nhà ở. Bộ đội sẽ giúp đồng bào làm ăn, phát triển kinh tế, đám con nít được đi học, người ốm đau sẽ được chữa bệnh... Lúc đầu chẳng ai tin đâu. Ông Hạng Seo Vảng từng là chiến sĩ Vệ quốc đoàn và làm cán bộ xã mấy năm ở Bắc Hà, Lào Cai nên hiểu và tin cái lời cán bộ nói. Ông và một số người già đi vận động bà con về với bộ đội. Thế là hơn 300 hộ người Mông đã đồng ý theo bộ đội Binh đoàn 16 về khu dự án KTQP Đắk Ngo.

Lúc đầu về Đắk Ngo, nhiều gia đình người Mông ôm mặt lắc đầu vì rừng núi hoang vu quá, đường đi chỉ toàn bùn đất và bụi đỏ. Vợ ông Thào A Sáng níu tay chồng: “Về đây vẫn khổ à”. Một vài nhà còn bàn nhau trốn đi chỗ khác, nhưng ông Hạng Seo Vảng, ông Giàng A Chung, bà Mùa Thị Vải cùng nhiều hộ khác vẫn ở lại. Bộ đội đưa bà con vào sống tạm trong các nhà lán, rồi phát gạo, muối, phát chăn màn, đồ dùng sinh hoạt. Mấy ngày sau, bộ đội dắt người dân đi đo đất để làm nhà, làm nương rẫy. Mỗi hộ được cấp từ 400-700m2 đất tùy theo số lượng nhân khẩu để dựng nhà và được giao từ 0,5-1ha đất để trồng điều, cà phê, hồ tiêu… Lúc dựng nhà, bộ đội chở tôn, chở gỗ đến cấp cho cả bản và cử chiến sĩ đến giúp dân. Từ lúc con trăng khuyết đến khi con trăng tròn, những bản Mông mới đã hình thành bên dòng Đắk Ngo. Đám con trai vui sướng mang khèn ra thổi vang bên dòng suối, khiến lũ con gái cứ e ấp, chúm chím thập thò bên mái hiên ngắm nhìn. Kể từ đó, cứ mỗi đêm trăng sáng, hay được mùa, tiếng khèn Mông lại dập dìu bên dòng Đắk Ngo, rồi lan ra các triền dốc, triền đồi, vọng lên nương rẫy và len lỏi cả vào những cánh rừng phía Quảng Trực, Quảng Tâm, Đắk Ru, Đắk R’tih…

Người cán bộ mà bà con dân tộc Mông nhắc đến nhiều nhất là Đại tá Vũ Văn Mài. Anh cũng được bà con đặt cho cái tên rất Mông: Cán bộ Giàng Seo Mài. Tuy không nói được tiếng đồng bào, nhưng anh được bà con quý mến như người nhà. Nhiều chuyện mâu thuẫn trong bản nếu già làng không phân giải được, thì nhờ cán bộ Giàng Seo Mài là xong ngay. Chả thế mà già làng Hạng Seo Vảng, ông Dương Văn Phông, hay ông Giàng A Lừ đều nhận: “Cán bộ Mài nó là em trai của mình đấy”.

Theo bước chân của người Mông lên nương có rất nhiều bộ đội, công nhân của Trung đoàn 720. Bộ đội dạy người Mông cách trồng và chăm sóc cây. Thế rồi những con đường công vụ được mở ra để kết nối các bản làng với đường quốc lộ và kết nối các bản làng với nhau. Thượng tá Phạm Sở là người chỉ huy bộ đội mở đường. Từ quốc lộ 14, con đường uốn theo các sườn núi, chạy thẳng vào khu trung tâm của trung đoàn 720 và tỏa xuống các khu dân cư của người Kinh, người Mông. Có đường, hàng hóa trong khu dự án KTQP đã được tiêu thụ ở Gia Nghĩa, Đồng Xoài, Buôn Ma Thuột, TP. Hồ Chí Minh và những mặt hàng thiết yếu phục vụ cuộc sống cũng chảy từ các nơi vào khu KTQP Đắk Ngo.

Thời gian sau, nhiều trường học cũng mọc lên ở các bản của người Mông và đội sản xuất của người Kinh. Nhiều nhất là các lớp mẫu giáo, tiểu học. Buổi sáng người lớn lên nương rẫy cũng là lúc bọn trẻ con hát vang ngoài lớp. Sau này, các cô gái Mông như Mùa Thị Rợ, Hạng Thị Doá biết tiếng phổ thông được cán bộ cho làm trợ giảng và làm cô giáo.

Được bộ đội Binh đoàn 16 giúp đỡ, thóc gạo, khoai sắn, cà phê “chạy” vào nhà người Mông ngày càng nhiều. Hàng chục hộ dân người Mông có nguồn thu hơn 100 triệu đồng từ lúa và cà phê mỗi năm. Thế là con đường nối Đắk Ngo với quốc lộ 14 càng tấp nập người xe qua lại để trao đổi hàng hóa. Có tiền, các gia đình người Mông, người Kinh thi nhau làm cái nhà mới bằng gỗ, hay xây nhà tầng, mua ti vi, tủ lạnh, xe máy. Đến nay, nhiều nhà còn mua được cả ô tô, máy kéo, máy chế biến cà phê nữa.

Gặp tôi ở quận 12, TP. Hồ Chí Minh, sức khoẻ của Đại tá Vũ Văn Mài giờ đã đi xuống nhiều. Anh bồi hồi tâm sự: “Đã nghỉ hưu hơn 10 năm rồi, mà tôi vẫn nhớ Đắk Ngo, nhớ đồng bào lắm. Mỗi lần về thăm Đắk Ngo là một lần được chứng kiến sự đổi thay của vùng đất mới. Âm hưởng tiếng khèn Mông rộn rã mừng quê hương Đắk Ngo đang phát triển mạnh mẽ từng ngày còn vang mãi trong tôi”.

Lê Phi Hùng