Trưa ngày 20-12-1983, Đại đội tôi đứng chân tại một địa điểm thuộc huyện Săm Pô, tỉnh Kratie (Campuchia) thì được lệnh đi chiến đấu. Đang ngủ, cả đại đội nhanh chóng dậy nhận lệnh làm công tác chuẩn bị lên đường, với tinh thần lập công chào mừng kỷ niệm 39 năm Ngày thành lập Quân đội. Quá trình hành quân đến mục tiêu phải cắt qua nhiều đồi núi, rừng rậm. Đội hình đại đội di chuyển chậm chờ trinh sát tiểu đoàn cắt rừng, dẫn đường. Đang hành quân, đột nhiên phía trước dừng lại truyền tin có địch. Cả đội hình yên lặng, lắng nghe từ xa có tiếng chặt cây vọng lại. Trinh sát báo cáo phát hiện địch, xin mệnh lệnh của Ban Chỉ huy đại đội. Hội ý chớp nhoáng, Đại đội trưởng Sáng quyết định: Tuyệt đối giữ bí mật, các trung đội triển khai đội hình chiến đấu, trinh sát tiếp tục tiếp cận mục tiêu.
Sau hai giờ bám địch, đồng chí Lĩnh - Tiểu đội trưởng trinh sát báo cáo đây là cứ mới của quân Polpot mới từ Thái Lan chuyển về, có vài dãy lán đơn sơ bao quanh một căn nhà vách gỗ. Tại thời điểm quan sát có khoảng hơn 10 tên trong cứ; chúng đang củng cố, dọn dẹp trong trại. Ban Chỉ huy đại đội gọi cán bộ các trung đội và bộ phận trực thuộc hội ý, phân công nhiệm vụ; lên quyết tâm đánh địch vào sáng sớm ngày hôm sau (ngày 21-12).
Trong rừng, mùa đông rất lạnh, trời tối nhanh. Tôi chỉ huy tiểu đội bố trí đội hình chiến đấu, trải tấm tăng gối đầu lên ba lô nằm tạm. Quá nửa đêm trời mưa nhẹ hạt, tôi kéo tấm tăng trùm qua đầu, ngồi chờ giờ xuất kích. Trong lòng suy nghĩ phải đánh cho bọn này một trận tơi bời để trả thù cho đồng đội hy sinh do bị địch phục kích ở suối Okarieng ngày 24-11-1983.
Theo hiệp đồng, 3 giờ trinh sát đưa các trung đội theo ba mũi vào vị trí. Đại đội thông báo “giờ G” nổ súng là 4 giờ sáng. Thông tin báo qua máy PRC25, có hướng đã áp sát mục tiêu, đã nhìn thấy bọn địch đang nằm võng nghe đài, nấu ăn… Đại đội ra lệnh chờ các mũi vào đúng ý định mới nổ súng. Đại đội trưởng vừa dứt lời thì nghe một loạt AK nổ rền phía Trung đội 2; tiếp theo là tiếng nổ "bùng bình" của B40, rồi liên tiếp tiếng súng của bộ đội ta nổ khuấy động bầu không khí tĩnh lặng của núi rừng. Bị đánh bất ngờ, bọn địch không kịp chống trả, chúng chỉ bắn vu vơ vài loạt rồi bị ta tiêu diệt gọn 14 tên. Ta có 1 đồng chí bị thương nhẹ do quá trình vận động bị vướng cây rừng vấp ngã.
Trận đánh chỉ diễn ra trong vòng 10 phút. Nguyên nhân nổ súng sớm do có một tên lính Polpot đang giải quyết việc "cá nhân" phát hiện "Con tóp Việt Nam - Bộ đội Việt Nam", nó bỏ chạy. Trung đội trưởng Trung đội 1 buộc phải ra lệnh nổ súng hạ gục hắn bằng một loạt đạn và ra lệnh nổ súng tấn công tiêu diệt toàn bộ địch trong căn cứ.
Khi Ban Chỉ huy đại đội vào đến nơi thì các đơn vị đã thu dọn chiến trường. Nhìn thấy cạnh bếp có nồi khoai mì (sắn) đang luộc dở đổ vương vãi trên nền đất, tôi gọi Duyên - anh nuôi đến thu gom mang theo. Duyên hỏi:
- Nhặt làm gì anh, bẩn rồi!...
- Lấy hết mang đi! Tôi nói.
Buổi trưa hôm đó trên đường hành quân về đơn vị, nghỉ ăn trưa. Lấy sắn ra, thêm chút mỡ, chút bột nêm, chúng tôi được một nồi canh sắn ngon chưa từng biết. Ăn xong, tiếp tục hành quân về trên trục đường 13, gần đến doanh trại, Đại đội ra lệnh phải cắt rừng để giữ bí mật. Vừa đi được khoảng 1km nghe một tiếng nổ đanh gọn của mìn 652a. Đại đội thông báo cho biết đồng chí Hoàng chiến sĩ trinh sát dẫn đầu vướng mìn bị cắt mất một phần gót, máu ra nhiều. Đây là loại mìn gây ám ảnh với lính bộ binh, vướng vào là nó cắt chân ngọt xớt, thuốc mìn địch có chứa hoạt chất chống đông máu, y tá phải tiêm thuốc cầm máu mới garo được. Hoàng bị thương phải về nước ngày hôm sau (ngày 22-12-1983).
Đây là trận đánh dễ dàng nhất, nhưng đạt hiệu quả cao trong các trận đánh mà tôi từng tham gia, cũng là trận đánh sát ngày kỷ niệm 39 năm Ngày thành lập QĐND Việt Nam, nên dù đã trải qua 39 năm rồi, nhưng tôi vẫn nhớ như in từng chi tiết.
Nguyễn Bá Thuyết