Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đồng bằng Bắc bộ có vị trí chiến lược hết sức quan trọng. Đó là chiến trường chính, trong thế tranh chấp, giằng co quyết liệt giữa ta và địch. Sau chiến dịch Trần Hưng Đạo, quân ta đánh vào phòng tuyến của địch từ Vĩnh Phú đến Hà Bắc, chiến dịch Hoàng Hoa Thám đánh địch trên đường số 18 và chiến dịch Quang Trung đánh vào nơi yếu nhất của địch ở đồng bằng Bắc bộ là Hà Nam Ninh.
Thu Đông năm 1952, địch tập trung chủ lực đánh chiếm Hòa Bình nhằm chia cắt các chiến trường và tiêu diệt một bộ phận quân chủ lực của ta, để giành lại thế chủ động trên chiến trường Bắc bộ. Đảng ta chủ trương đánh địch trên cả hai mặt trận, cả phía trước và phía sau lưng địch. Ta đã sử dụng một bộ phận quân chủ lực đánh sâu vào vùng địch tạm chiếm, phối hợp với bộ đội địa phương và dân quân du kích tiêu diệt hàng loạt bốt đồn địch, củng cố và mở rộng căn cứ du kích. Sau thất bại ở Hòa Bình vào đầu năm 1952 thực dân Pháp ra sức tăng cường về mọi mặt, tập trung binh lực, tiến hành nhiều cuộc càn quét lớn nhỏ nhằm tiêu diệt một bộ phận bộ đội chủ lực, chiếm lại các vị trí bị mất, thực hiện ý đồ bình định lại vùng đồng bằng Bắc bộ, cứu vãn tình thế đã mất.
Trong trận chống càn quét của địch bằng chiến dịch “xe cóc” từ ngày 10-3-1952 đến 20-3-1952, tại huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, chỉ huy E64, f320 giao nhiệm vụ cho tiểu đoàn 738 do Ngô Đức - Tiểu đoàn phó chỉ huy, Lê Nguyên Soái - Đại đội phó chỉ huy Đại đội 67 chủ công, có nhiệm vụ đánh địch ở trong nội tuyến để tiêu hao binh lực địch, bảo vệ tài sản, tính mạng của nhân dân, tạo điều kiện cho các bộ phận tác chiến ở bên ngoài tiêu diệt địch. Lúc đó địch tăng cường hoả lực, xe cơ giới, bộ binh càn quét liên tục, nên kế hoạch của ta chưa thực hiện được. Vì vậy, ngày 11-3-1952 Trung đoàn lệnh cho Tiểu đoàn 738 phải đưa bộ đội vượt vòng vây và tạo điều kiện đánh sau lưng địch.
Đêm ngày 11-3, Ngô Đức đưa bộ đội về Mạc Thượng, cách nơi tác chiến khoảng 10km, khi đến nơi thì địch đã bao vây khu vực xung quanh. Trong tình thế hết sức cấp bách, với tư cách là người chỉ huy cao nhất ở đó, Ngô Đức đã không bàn bạc, lên kế hoạch tác chiến cụ thể mà chỉ ấn định nhiệm vụ một cách sơ sài, đại khái cho các đơn vị, cũng không đôn đốc, kiểm tra tình hình các đơn vị. Mặt khác, Ngô Đức không chỉ huy tăng cường trinh sát theo dõi, bám sát tình hình địch để tìm cách xử trí. Đến chiều 12-3 quân địch ồ ạt tấn công vào khu vực Mạc Thượng, gặp một trung đội của C67 đánh trả. Lúc đó Lê Nguyên Soái đã không trực tiếp chỉ huy tác chiến cũng không điều các trung đội khác và tiểu đội hoả lực (cối 60 ly) phối hợp đánh địch. Trong tình thế bị địch chủ động tấn công, đại bác địch bắn liên hồi vào khu vực trú quân của ta, Ngô Đức không dám lên trực tiếp nắm tình hình, chỉ huy bộ đội đánh địch mà nằm ở dưới hố để tránh đại bác địch, đơn vị không có người chỉ huy bị phân tán, tê liệt không tác chiến được.
Tối ngày 12-3-1952, chỉ huy các đơn vị báo cáo tình hình với Ngô Đức và đề xuất tìm đường vượt vòng vây sang Duy Tiên, nhưng con đường này cũng bị địch rải quân chốt giữ. Do không nắm vững tình hình địch, không liên lạc được chắc chắn với địa phương cộng với tinh thần bị dao động nặng, nên Ngô Đức chỉ nghe báo cáo chứ không xem xét cụ thể, không đưa ra được phương án giải quyết tình hình. Vì vậy, bộ đội ta lúng túng ở trong vòng vây của địch. Trong khi đó một số cán bộ và đồng bào ở trong khu vực đã tìm được đường và vượt vòng vây của địch.
Ngay đêm 12-3 Trung đoàn lệnh xuống phải chuyển quân về Hạ Vỹ và sang Bình Lục, khi đến Hạ Vỹ quân ta gặp khó khăn trong khi vượt sông. Ngô Đức liền triệu tập các cán bộ đại đội để thảo luận, nên cố thủ hay phân tán, trong cuộc họp có nhiều ý kiến nên vượt vòng vây, cuộc họp còn đang tranh luận chưa ngã ngũ thì Lê Nguyên Soái đưa ra kinh nghiệm ở Thái Bình là nên phân tán bộ đội. Ngô Đức cho là hay nên quyết định chôn súng và phân tán bộ đội.
Cuộc họp thống nhất đặt liên lạc ở xã Xuân Khê và ấn định sẽ tập trung bộ đội vào ngày 14-3, nếu địch không tiếp tục càn quét sẽ tìm đường ra. Ngay sau đó cán bộ tiểu đoàn, đại đội mỗi người bỏ đi một ngả, Ngô Đức về nhà bà cô ở Đức Bản. Ngày 14-3 địch vẫn chưa tấn công vào khu vực bộ đội ta phân tán, mà chỉ mới đánh đến Đức Bản. Tối hôm đó hai đại đội tập trung đầy đủ để nhận lệnh của tiểu đoàn thì Đức lại không có mặt để chỉ huy bộ đội. Các cán bộ đại đội đã hội ý và tự động tổ chức vượt vòng vây. Lê Nguyên Soái chỉ huy đại đội 67 nhưng do tư tưởng cầu an, sợ chết nên khi gặp địch đã hoang mang, do dự và cho bộ đội quay trở lại chỗ cũ để bộ đội tiếp tục phân tán.
Vào khoảng 4 giờ sáng ngày 15-3, địch tấn công vào khu vực bộ đội ta phân tán, đơn vị không có người chỉ huy, bị động, lại phân tán nhỏ lẻ, súng một nơi, người một nẻo, nên bị tan rã, một số hy sinh, một số bị địch bắt. Sau khi địch rút quân thì Ngô Đức mới từ nhà bà cô trở ra đi tìm đơn vị.
Trong trận càn quét này của địch, Tiểu đoàn 738 bị tổn thất rất nặng nề, 137 người hy sinh và bị địch bắt trong đó có một số cán bộ trung đội, tiểu đội, vũ khí, trang bị của hai đại đội và hoả lực trợ chiến của tiểu đoàn hầu hết bị rơi vào tay địch. Tinh thần bộ đội sa sút nghiêm trọng, thiếu tin tưởng vào cán bộ, chỉ huy. Bộ đội địa phương, dân quân du kích và đồng bào địa phương giảm lòng tin vào bộ đội chủ lực, tình hình trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc củng cố, xây dựng cơ sở kháng chiến. Về phía địch đang ở trong thế bị động, nay lợi dụng huênh hoang tuyên truyền cho thắng lợi của chúng.
Ngày 21-4-1952 Trung đoàn 64 họp kiểm điểm đối với cán bộ, chỉ huy tiểu đoàn 738. Hội nghị đã đi đến kết luận: Nguyên nhân dẫn đến thất bại của Tiểu đoàn 738 trong chiến dịch chống càn vừa qua là do:
Thứ nhất, khi gặp địch cán bộ tiểu đoàn, đại đội không có kế hoạch tác chiến cụ thể, trong quá trình tác chiến không có sự chỉ huy của cán bộ tiểu đoàn, đại đội mà để các trung đội tự đánh địch;
Thứ hai, cán bộ chỉ huy không tích cực, chủ động chỉ huy bộ đội vượt khỏi vòng vây của địch.
Thứ ba, tổ chức phân tán bộ đội thiếu kế hoạch cụ thể. Mặt khác tình hình lúc đó cũng không cần phải phân tán bộ đội, nếu quyết tâm tổ chức vượt vòng vây địch vẫn được.
Căn cứ vào hành vi, vi phạm nghiêm trọng của số cán bộ trên và những tổn thất cũng như hậu quả xấu do họ gây ra. Ngày 13-5-1952 Bộ Tư lệnh sư đoàn 320 đề nghị truy tố Ngô Đức, Lê Nguyên Soái ra trước Tòa án binh Liên khu 3 và ngày 18-5 Ngô Đức và Lê Nguyên Soái bị bắt tạm giam.
Lúc bấy giờ, Tòa án binh Liên khu 3 do đồng chí Dương Chính phụ trách, khi nghiên cứu hồ sơ, chuẩn bị xét xử vụ án, có một vấn đề đặt ra là việc áp dụng pháp luật và luận tội như thế nào cho đúng, có tính thuyết phục đối với những sai phạm của các bị cáo.
Trong vụ án này, Ngô Đức và Lê Nguyên Soái đã gây ra sự tổn thất nặng nề về cả về tính mạng, tinh thần và vật chất cho bộ đội mà nguyên nhân chủ yếu là do tư tưởng bảo mạng, sợ hy sinh, thiếu tinh thần trách nhiệm trước bộ đội và nhân dân của hai cán bộ.
Trong vụ án này, có những điều kiện như ở Mạc Thượng có thể đánh địch để mở đường ra, nhưng không tổ chức đánh địch. Lê Nguyên Soái cũng đã thú nhận “Nếu lúc đó điều cả hai trung đội lên cùng phối hợp đánh địch thì chắc chắn là đánh được”. Như vậy, trong tình huống đánh địch được để phá vòng vây cũng không đánh; lặng lẽ vượt vòng vây địch mà ra cũng không làm, lại phân tán bộ đội không phải để đánh địch mà là trốn địch. Mặc dù lúc đó đa số cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị có tinh thần quyết tâm đánh địch để mở vòng vây, nhưng Ngô Đức không trưng cầu ý kiến bộ đội. Vì vậy, có đủ căn cứ khẳng định Ngô Đức và Lê Nguyên Soái đã quyết định tự ý rút lui trước quân địch.
Tối ngày 1-7-1952, tại một ngôi đình gần sư đoàn bộ, Toà án binh Liên khu 3 đã mở phiên toà công khai xét xử bị cáo Ngô Đức và Lê Nguyên Soái. Phiên toà được tổ chức chặt chẽ, trang nghiêm trước sự có mặt của hàng trăm bộ đội, trong đó có nhiều cán bộ cấp trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội. Hội đồng xét xử đều là những cán bộ từng trải, lăn lộn nhiều trong cuộc kháng chiến chống Pháp ác liệt. Tại phiên toà hành vi phạm tội của các bị cáo đã được phân tích, chứng minh làm rõ, có căn cứ vững chắc, các bị cáo đã phải cúi đầu nhận tội, Đức và Soái đã thú nhận tội lỗi của mình.
Hội đồng xét xử đã căn cứ vào mục g Điều 7 Sắc lệnh 163/SL ngày 23-8-1946 của Chính phủ, xử phạt bị cáo Ngô Đức 20 năm, Lê Nguyên Soái 15 năm khổ sai.
Đây là bài học xương máu, có ý nghĩa sâu sắc về việc chấp hành nghiêm túc chỉ thị, mệnh lệnh của cán bộ, chiến sỹ, về tinh thần mưu trí, dũng cảm, sáng tạo, quyết tâm đánh địch trong mọi điều kiện, hoàn cảnh. Về vai trò gương mẫu, ý thức trách nhiệm của người chỉ huy các cấp, trong việc thực hiện nghiêm chỉnh nhiệm vụ được giao cũng như trách nhiệm đối với đồng chí, đồng đội của mình.
Vụ án xảy ra cách đây đã hơn 70 năm, có không ít người trong số họ có lẽ đã đi vào cõi vĩnh hằng. Nhưng những gì xảy ra ngày ấy, vẫn để lại những bài học, những trăn trở không nguôi trong tâm trí mỗi chúng ta, các thế hệ cầm súng đánh giặc “một bài học không quên”!
Nguyễn Văn Hạnh - (Theo hồ sơ vụ án lưu giữ tại Tòa án Quân sự T.Ư)