Trong lịch sử xã hội loài người, người cầm quyền hay tất cả những người trong bộ máy công quyền của một chế độ xã hội đang ở thời kỳ thịnh vượng, đang phát triển đều cần có và đều đòi hỏi các đức tính quan trọng là liêm, chính. Hàn Phi (280 - 233 trước Công nguyên), thời Trung Hoa cổ đại khi bàn về nguy cơ thói hám lợi của người đời cũng nói rằng: “Ham lợi nhỏ tức là hại đến lợi lớn”. Còn xét trên bình diện xã hội rộng lớn hơn, thì một đất nước, như Mạnh Tử (372 - 289 trước Công nguyên) cho rằng, nếu mà “ai cũng tham lợi, thì nước lâm nguy”. Đó đều là những bài học về sự liêm, chính mà người đời xưa nhắc nhở và chúng ta cần ghi nhớ.
Ở Việt Nam, các chế độ xã hội chính trị trước đây, những người đứng đầu trong hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước, từ thấp lên cao, đều là những bậc quan lại. Những người được bổ nhiệm làm quan dưới chế độ xã hội Phong kiến đương thời đều phải tuyển dụng qua con đường khoa bảng. Người đỗ cao được bổ nhiệm làm quan to; người đỗ thấp được bổ nhiệm làm quan nhỏ. Công việc làm quan là con đường công danh (đường hoạn lộ) và là một nghề nghiệp cao quý của người làm quan, trong xã hội đương thời. Nó gắn bó với vận mệnh của đất nước với đời sống của nhân dân: Dân có giàu nước mới mạnh; nhà nhà có no ấm thuận hoà thì xã hội mới yên bình. Vì thế mà đòi hỏi người làm quan phải có đức độ, trí thức và tài năng, hơn hẳn đại đa số quần chúng. Có như vậy mới đáp ứng được vị thế, công danh của mình: Làm sáng tỏ đạo lý cho nhân dân noi theo - Biết lo trước điều lo của thiên hạ, mới vững vàng về cán cân công lý xã hội, mới biết chăm dắt dân: Làm cho dân có một cuộc sống no ấm thanh bình...
Để giữ gìn sự nghiệp, công danh trong đời hoạn lộ, khỏi bị bả vinh hoa phú quý làm đổ vỡ, người xưa thường lấy chữ “liêm” làm gương sáng để soi mình. Trong Hán tự có tới hàng chục chữ “liêm”, mỗi chữ có một ngữ nghĩa khác nhau. Xin được phiếm bàn về chữ “liêm” trong đời hoạn lộ của các bậc quan lại đương thời.
Chữ “liêm” có nghĩa là ngay - biết phân biệt nên chăng, không tham lam, không lấy xằng... Chữ “liêm” được ghép với chữ “chính” thành “liêm chính” là đạo đức của người có chức trách; chữ “liêm” được ghép với chữ “khiết” thành từ “liêm khiết” tức là giữ gìn trong sạch không thèm làm các việc phi nghĩa; chữ “liêm” được ghép với chữ “thanh” thành từ “thanh liêm” nghĩa là: Trong sạch, không tham lam, không thèm làm những việc không nên làm. Chữ “liêm” trên, dù ghép với từ nào cũng mang một ý nghĩa giáo dục thẩm mỹ trên con đựờng hoan lộ của người làm quan. Đó là đạo đức của người chức trách, phẩm chất trong sạch, không tham ô, không nhận tiền hối lộ, khộng chiếm công, vi tư, không làm những điều xằng bậy ảnh hưởng đến sự nghiệp công danh của mình.... Theo triết học cổ Phương đông: “Tử - Cơ - Nhật - Vũ - Đồng - Liêm” là 6 yếu tố cần có của con người thì chữ “liêm” là cốt yếu của 6 yếu tố đó.
Xin được nhắc tới một số tấm gương liêm chính của công thần trong xã hội Phong kiến đương thời.
Đời nhà Lý - Thái phó Tô Hiến Thành không vì vàng bạc châu báu của Thái hậu đem hối lộ vợ mình, hoặc dụ dỗ trăm đường... mà làm sai ký thác của nhà vua, để lập Thái tử khác. Người nói: “Làm việc bất nghĩa và được giàu sang, người trung thần nghĩa sĩ đâu lại như thế!”
Đời nhà Trần: Trần Thì Kiến làm quan đến chức Tả bộc xạ (chức quan đại thần trong triều đình dưới thời Trần) - Một lần ông được người láng giềng biếu một mâm cỗ. Ăn xong, người ấy bèn cầu cạnh sự việc trái với phép nước, liên luỵ đến công danh, đến nhân cách, ông bèn móc họng thổ ra hết. Lòng liêm khiết, cương trực của ông được quần thần khen ngợi.
Đời Lê Trung Hưng: Vào đầu thời Thịnh Đức, các viên chức ở phủ Liêu đều bị kiện về việc ăn hối lộ và bị đình nghị, giáng chức cả. Chỉ có quan Tả thị lang Đặng Thế Khoa là không dính dáng gì, ông được chúa Trịnh khen ngợi tin dùng, thăng lên Thượng thư Bộ binh vào làm tham tụng ở phủ chúa. Lê Trạc Tú làm quan đến Thượng thư Bộ lại, rồi Tể tư ớng, ông cất nhắc người hiền tài, mấy lần can ngăn ngay trước mặt vua... Ông khí khái, chững chạc, ngay thẳng, trong sạch, không cầu tài lợi, khi thôi làm tướng, nhà không có của dư. Cái tiết tháo thanh giới đó bấy giờ ai cũng khen. Khi ông mất được tặng: Thiêu bảo, Tước quận công, gia phong phúc thần.
Trong cuốn Cổ học tinh hoa của người xưa đúc kết, có chuyện Dương Chấn làm quan không chịu nhận hối lộ: “... Xin ngài cứ nhận cho. Bây giờ đêm khuya không ai biết” - “Trời biết, đất biết, ông biết, tôi biết sao lại bảo là không ai biết?”... Biết bao bậc vương đế, công hầu, khanh - tướng một lòng vì nước, vì dân, nêu cao chữ “liêm” trong sự nghiệp trong đời hoạn lộ của mình, đã để lại danh thơm muôn thủa, sử sách lưu truyền...
Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm đến việc giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Từ khái niệm đạo đức truyền thống cũ: “Nhân - Nghĩa - Trí - Dũng - Liêm” người nâng lên thành đạo đức cách mạng mới, đó là: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư...
Người viết:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính
Thiếu một mùa thì không thành trời
Thiếụ một phương thì không thành đất
Thiếu một đức thì không thành người”
Người còn giải thích rõ về khái niệm, ý nghĩa, nội dung của từng chữ: Riêng chữ “Liêm” nghĩa là: Không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham sung sướng, không tham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hóa... chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ. Đó là đạo đức cách mạng.
Ngày nay, trong “Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, phẩm chất liêm, chính với tính cách là những giá trị cốt lõi phải được đặt lên hàng đầu. Sở dĩ phải như vậy vì trong những năm gần đây, cả trong Đảng và trong xã hội, do nhiều nguyên nhân, cả khách quan và chủ quan, sự thiếu liêm, chính trong một bộ phận cán bộ, đảng viên rất đáng báo động. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhận định: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, “lợi ích nhóm”, bệnh lãng phí, vô cảm, bệnh thành tích ở một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi”; mặt khác, chúng ta cũng “chưa có giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn, đẩy lùi sự xuống cấp nghiêm trọng về một số mặt văn hóa, đạo đức, lối sống, gây bức xúc xã hội”. Từ nhận định trên đây, Đại hội XIII nhấn mạnh yêu cầu phải “tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu các cấp đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”. Cán bộ, đảng viên cần thấm nhuần điều được Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn là “phải có gan chống lại những sự vinh hoa, phú quý không chính đáng”; biết trọng danh dự; tuyệt đối không được “dựa vào thế lực của Đảng để theo đuổi mục đích riêng của mình”, đồng thời họ cũng phải hiểu rằng “tham lam là một điều rất xấu hổ, kẻ tham lam là có tội với nước, với dân”.
Ngày 9-5-2024, Bộ Chính trị ban hành Quy định số 144-QĐ/TW “Về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên giai đoạn mới” với 5 chuẩn mực đạo đức cơ bản. Trong đó, điều 3 quy định chuẩn mực “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” nêu rõ, cán bộ, đảng viên phải: Trong sạch, không tham ô, tham nhũng, tiêu cực, không gây phiền hà, sách nhiễu; trung thực, thẳng thắn, khách quan, công tâm; nêu cao lòng tự trọng, danh dự, không cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực, giữ gìn phẩm giá của người cán bộ, đảng viên, không để tác động lôi kéo, cám dỗ tiêu cực... Do vậy, cần tăng cường giáo dục phẩm chất “Liêm”, “Chính” cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đây chính là một cách phòng ngừa hiệu quả đối với tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên hiện nay.
Tiến sĩ Vũ Minh Thực - Phó Ban Công tác Hội CCB Việt Nam