Ung thư đại trực tràng xảy ra ở cả nam và nữ nhưng thường gặp hơn ở nam giới. Theo nghiên cứu của Globocan 2022 (hệ thống cơ sở dữ liệu toàn cầu về ung thư), tỷ lệ ung thư đại trực tràng ở Việt Nam có khoảng 17 nghìn ca mắc mới trong một năm. Đây là bệnh lý đứng thứ 2 trong bệnh lý ung thư đường tiêu hóa.
Tiến sĩ, Bác sĩ (TS. BS.) Hồ Hữu An - Phó chủ nhiệm Khoa Phẫu thuật Trực tràng - Sàn chậu, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, cho biết: “Ung thư đại trực tràng là bệnh lý ác tính, xuất phát từ niêm mạc ở đại tràng, do sự phát triển bất thường, mất kiểm soát của tế bào ở biểu mô gây tình trạng ung thư đại trực tràng. Bệnh có xu hướng ngày càng tăng và ngày càng trẻ hóa”.
Theo TS.BS. Hồ Hữu An, có rất nhiều yếu tố nguy cơ gây bệnh lý ung thư đại trực tràng. Thứ nhất là yếu tố tuổi tác, bệnh hay gặp ở người trung niên và cao tuổi, tuổi trung bình từ 60-65 tuổi. Thứ hai, bệnh có yếu tố di truyền, đặc biệt là bệnh lý đa Polyp gia đình, các thành viên trong gia đình có tiền sử bệnh lý về ung thư đại trực tràng cũng có nguy cơ ung thư cao hơn bình thường. Thứ ba, yếu tố môi trường, sống trong môi trường ô nhiễm lâu dần cũng có thể gây đột biến gen ở con người. Ngoài ra, các yếu tố chế độ ăn uống (ăn nhiều thịt đỏ, thịt nướng, thịt hun khói, thói quen ăn ít rau xanh và ăn ít hoa quả), hút thuốc lá, uống bia rượu, béo phì, giảm vận động cũng làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư đại trực tràng.
Ung thư đại trực tràng thường không có triệu chứng đặc hiệu, cần lưu ý một số triệu chứng như rối loạn đại tiện (bệnh nhân có thể đi táo, lỏng thất thường, đi ngoài phân có nhầy máu), kèm theo những triệu chứng như mệt mỏi, gầy sút cân, đây là những vấn đề hướng đến bệnh lý đại trực tràng, mọi người cần lưu ý để đi khám sớm. Ung thư đại trực tràng nói riêng và các bệnh lý ung thư nói chung ở giai đoạn sớm gần như không có triệu chứng hoặc ít triệu chứng, do đó rất khó để phát hiện. Người dân nên đi tầm soát định kỳ để giúp phát hiện những tổn thương gây ung thư ở giai đoạn sớm.
TS. BS. Hồ Hữu An cho hay: “Có hai phương pháp để chẩn đoán bệnh ung thư đại trực tràng, một là chẩn đoán xác định, hai là chẩn đoán giai đoạn khi bệnh nhân đã được chẩn đoán bị ung thư. Với phương pháp chẩn đoán xác định, đặc hiệu nhất vẫn là nội soi đại trực tràng, nhờ sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật hiện nay khi nội soi có thể giúp phát hiện được những tổn thương từ sớm mà mắt thường không nhìn thấy được, khi soi còn có thể lấy mẫu từ những tổn thương nghi ngờ để làm sinh thiết chẩn đoán xác định bệnh lý ung thư đại trực tràng. Ở phương pháp chẩn đoán giai đoạn bệnh, khi mà bệnh nhân đã được chẩn đoán bị ung thư đại trực tràng rồi thì sẽ cần thêm những chẩn đoán tiếp theo như chụp CT đại tràng hay chụp MRI để chẩn đoán về giai đoạn bệnh, từ đây bác sĩ sẽ có những phác đồ điều trị phù hợp cho người bệnh”.
Hiện nay, ở một số nước phát triển thường phân tầng nguy cơ để có những tầm soát phù hợp. Thường bệnh nhân có yếu tố gia đình có người bị ung thư đại trực tràng sẽ được khuyến nghị tầm soát ung thư sớm hơn khoảng 20-30 tuổi, tần suất 1-2 năm một lần tùy vào mức độ nguy cơ. Những người không có yếu tố nguy cơ được khuyến nghị từ độ 40 tuổi có thể đi nội soi để tầm soát, giúp phát hiện tổn thương sớm nhất, đặc biệt là những Polyp. Theo nghiên cứu, có đến 90% bệnh nhân bị ung thư đại trực tràng xuất phát từ Polyp, do vậy khi phát hiện Polyp sớm có thể can thiệp bằng nội soi đại tràng để cắt bỏ, ngăn nó tiến triển thành ung thư. Ung thư đại trực tràng cũng như nhiều bệnh ung thư khác nếu được phát hiện và điều trị sớm sẽ rất hiệu quả, một số bệnh ung thư còn có thể điều trị khỏi. Ung thư đại trực tràng ở giai đoạn 1 và 2, sau khi được phẫu thuật và điều trị đúng phác đồ tỷ lệ sống sau 5 năm từ 80-90%, TS. BS. Hồ Hữu An nhấn mạnh.
Điều trị ung thư đại trực tràng là điều trị đa mô thức với sự kết hợp giữa phẫu thuật, hóa chất và xạ trị. Ở giai đoạn sớm, giai đoạn tiến triển thì phẫu thuật là lựa chọn hàng đầu. Khi bệnh nhân bị tổn thương ở giai đoạn muộn hơn sẽ được phối hợp điều trị đa chuyên khoa như hóa chất, phẫu thuật và xạ trị giúp tăng hiệu quả điều trị bệnh lý. Hiện nay, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, những liệu pháp điều trị đích hiệu quả cũng như kinh nghiệm của phẫu thuật viên trong điều trị ung thư đã mang đến cho bệnh nhân những kết quả điều trị tốt nhất cho người bệnh, giúp cải thiện đáng kể thời gian sống và bảo tồn tối đa chức năng đại tiện cho bệnh nhân sau phẫu thuật.
Bệnh nhân Nguyễn Minh Tuấn (quê Hưng Yên) đang điều trị tại Khoa Phẫu thuật Trực tràng - Sàn chậu, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 cho biết: “Tôi có Polyp lớn ở trực tràng, đã được phẫu thuật cắt Polyp. Triệu chứng ban đầu của tôi rất ít, tôi chỉ bị táo bón, khi đi khám thì phát hiện ra mình bị Polyp. Nếu không phát hiện sớm để cắt Polyp sẽ rất nguy hiểm. Tôi khuyên mọi người cuộc sống dù bận rộn nhưng mọi người nên đi kiểm tra tầm soát định kỳ, nhất là những người trên 40 tuổi. Khi không may bị ung thư đại trực tràng thì hãy thật bình tĩnh, thoải mái tâm lý, tuân thủ phác đồ điều trị của bác sĩ giúp bảo đảm hiệu quả điều trị bệnh”.
TS. BS. Hồ Hữu An khuyến cáo, nội soi rất quan trọng trong việc phát hiện ra bệnh lý ung thư đại trực tràng, có nhiều phương pháp nhẹ nhàng khi soi như nội soi gây mê. Bệnh nhân trong quá trình nội soi không bị đau đớn hay khó chịu trong quá trình soi. Nếu bệnh nhân sau nội soi không can thiệp gì thì chỉ cần nghỉ ngơi, ăn nhẹ để kích thích tiêu hóa. Với bệnh nhân có can thiệp phẫu thuật như cắt Polyp sẽ có chế độ ăn mềm 2-3 ngày đầu hoặc tránh làm việc nặng từ 2-3 tuần sau thủ thuật.
Người dân cần có chế độ ăn lành mạnh, ăn tăng chất xơ, uống nhiều nước, ăn nhiều hoa quả, rau xanh, hạn chế ăn thịt đỏ, hạn chế rượu bia và giữ môi trường luôn sạch sẽ. Mọi người cần chủ động đi tầm soát ung thư để có thể phát hiện kịp thời những tổn thương bất thường sớm. Đối với bệnh nhân đang điều trị bệnh ung thư đại trực tràng hãy lạc quan, yêu đời vượt qua bệnh tật và tuân thủ uống thuốc, có chế độ ăn phù hợp theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa giúp cơ thể bệnh nhân có sức đề kháng, miễn dịch, ức chế tế bào ung thư phát triển, giúp tăng kết quả điều trị, kéo dài thời gian sống cho bệnh nhân.