Anh hùng LLVT Hồ Đắc Thanh (đứng giữa) và Anh hùng LLVT Đặng Phi Thưởng (bên phải), những người góp nên huyền thoại Vũng Rô.
Bến tàu trong lòng dân Phú Yên
Theo tài liệu lưu trữ tại Tỉnh ủy và Bộ CHQS tỉnh Phú Yên, tháng 5-1964, Tỉnh ủy Phú Yên nhận được chỉ thị của T.Ư Đảng giao nhiệm vụ nghiên cứu tìm chọn bến bãi sẵn sàng tiếp nhận khí tài chi viện từ miền Bắc vào bằng đường biển. Đây là niềm vui lớn, nguyện vọng thiết tha của quân dân Phú Yên nói riêng và cả Liên khu 5 nói chung. Tháng 7-1964, Thường vụ Liên Tỉnh ủy 3 và Phân khu Nam (thuộc Khu 5) tổ chức Hội nghị Liên tịch ở suối Phẩn, xã Hoà Mỹ, huyện Tuy Hòa I để chọn bến bãi đón tàu tiếp nhận khí tài. Sau khi xem xét, bàn bạc, đánh giá các yếu tố, xem xét nhiều khu vực Hội nghị thống nhất quyết định chọn Vũng Rô làm bến đón tàu vào, vì đây là địa điểm hội tụ được các yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”. Hội nghị quyết định thành lập Ban Chỉ huy bến Vũng Rô, do Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên, Ủy viên Thường vụ Liên tỉnh 3 - Trần Suyền phụ trách.
Bến Vũng Rô nằm ngay dưới chân đèo Cả, phía đông quốc lộ 1, là bến nước sâu, êm sóng, có nhiều hang, gộp đá có thể làm nơi cất giấu nhiều loại khí tài, có những tuyến hành lang an toàn từ Vũng Rô đến Hòa Hiệp, Hòa Xuân và lên căn cứ của Tỉnh ủy Phú Yên, căn cứ Liên tỉnh ủy 3 và các tỉnh Nam Tây Nguyên. Sau khi chọn được địa điểm và thành lập Ban Chỉ huy bến, các mặt công tác chuẩn bị được xúc tiến khẩn trương, tích cực; tuyển nhân sự từ các tổ chức quân, dân, chính, Đảng; chuẩn bị bãi, hang, gộp, cầu cảng bằng gỗ lắp ráp giảm tối đa thời gian để tránh địch phát hiện; chuẩn bị nhiều phương án đón tàu, đưa hàng xuống bến, đưa lên gộp, chuyển về căn cứ chi tiết, cụ thể. Có cả nhiều phương án dự phòng địch phát hiện hoạt động đón tiếp của ta để đối phó kịp thời nhất.
Để tạo được thế đưa tàu vào bí mật cập bến, tạo thế giữ, thế đánh bảo vệ lâu dài, sau khi nghiên cứu đánh giá tình hình thực địa, Ban Chỉ huy Bến chọn bãi Chính để đưa tàu vào cập bến, điểm đậu của tàu là vũng nước sâu tiếp giáp vách núi phía tây bãi Chính. Nơi đây vừa có địa hình kín đáo lại khá rộng rãi thuận tiện cho việc vận chuyển hàng hóa từ tàu xuống bến, lên gộp mà địch khó phát hiện.
Lực lượng bảo vệ bến và bảo vệ hành lang vận chuyển có các trung đội bộ đội điạ phương K6, Đại đội 377, các trung đội, tiểu đội du kích tập trung của các xã vùng ven quanh bến. Lực lượng chuyển hàng từ tàu xuống bến đưa vào các hang, gộp là cán bộ, đảng viên, đoàn viên thanh niên được lựa chọn ở các thôn của xã Hòa Hiệp và xã Hòa Xuân, quân số hơn 200 người. Công tác bảo đảm hậu cần một phần do tỉnh, huyện bảo đảm, trưng dụng theo từng chuyến (thời gian 1 đến 2 tuần) và dựa vào sự ủng hộ của cấp ủy, chính quyền và nhân dân dọc hành lang vận chuyển. Mọi công tác chuẩn bị đến đầu tháng 12-1964 đã hoàn chỉnh chu đáo đến từng chi tiết. Cuối năm 1964, theo đề nghị của Tỉnh ủy Phú Yên, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 quyết định thành lập Đại đội bảo vệ bến Vũng Rô, mật danh K60 do đồng chí Hồ Thanh Bình làm Đại đội trưởng, đồng chí Phạm Ân làm Chính trị viên. Cùng với các hoạt động chuẩn bị về lực lượng, vật chất, phương án… là sự chuẩn bị về tinh thần cho cán bộ, đảng viên và quần chúng sẵn sàng giúp đỡ cách mạng, sẵn sàng hy sinh vì nhiệm vụ cách mạng, tạo ra tiềm lực thế trận lòng dân hết sức vững chắc.
Những chuyến tàu “không số” huyền thoại
Đêm 28-11-1964, bến Vũng Rô tiếp đón chuyến tàu “không số” đầu tiên. Từ chiều, bà con đã được gọi vào khu vực Vũng Chùa; mọi người được dẫn đường băng qua dãy núi dưới chân hòn Vọng Phu và mỏm Đá Bia đến đợi sẵn, không ai biết chuyện gì đang sắp diễn ra. Theo kế hoạch, đêm 22-11-1964, tàu 41 do Thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh và Chính trị viên Trần Hoàng Chiếu chỉ huy 18 cán bộ, thủy thủ chở 63 tấn khí tài được lệnh xuất phát từ Hạ Long (Quảng Ninh). Trong hành trình vượt qua giông tố, khi đi ngang qua vùng biển Ðà Nẵng, máy bay trinh sát của giặc Mỹ phát hiện, nghi ngờ, báo vào bờ và lập tức hai tàu tuần tiễu của địch lao ra kèm song song và chĩa thẳng nòng pháo về phía tàu 41. Nhờ ngụy trang tốt, tàu 41 mang biển hiệu 412 treo cờ nước ngoài đã đánh lừa được địch bỏ mục tiêu.
Lúc 23 giờ 50 phút ngày 28-11-1964, tàu 41 cập bến Vũng Rô. Phút gặp gỡ giữa cán bộ, thủy thủ tàu và lực lượng của ta có mặt tại bến vô cùng xúc động và tràn ngập niềm vui sướng. Tàu chỉ được phép ở lại bến Vũng Rô trong thời gian từ 24 giờ đêm đến 3 giờ sáng phải rời bến. Tuy nhiên, do lượng hàng đến 63 tấn, quá lớn so với khả năng bốc xếp nên tàu 41 phải ngụy trang ở lại bến thêm một ngày, 3 giờ sáng ngày hôm sau bốc xếp xong tàu rời bến. Bình minh biển Vũng Rô sóng vẫn bình yên tươi đẹp như chưa có chuyện gì xảy ra.
(còn nữa)
Đại tá Anh hùng LLVTND Đặng Phi Thường