(Tiếp theo)
Sau hơn 3 năm “về vườn”, đúng hơn là về làm vườn, khi Sài Gòn đang hấp hối, Nguyễn Cao Kỳ xăng xái trở lại chính trường. Ngày 27-3-1975, ông ta cho thành lập một tổ chức gọi là “Ủy ban cứu nguy Dân tộc” tập hợp những sĩ quan bại trận, những “chính khách” thất thế…, hòng cứu vãn Sài Gòn đang lâm nguy. Tiếp đó là một loạt những hành động nhằm tiến hành đảo chính lật đổ Nguyễn Văn Thiệu, để trực tiếp cầm đầu chính quyền quân sự chống Cộng, phục thù, nhưng không được Mỹ ủng hộ. Nguyễn Văn Thiệu từ chức, Trần Văn Hương, rồi Dương Văn Minh lần lượt thay nhau làm Tổng thống.
Khi ông già Hương lên làm Tổng thống, mặc dù đã quá tuyệt vọng, nhưng Cao Kỳ “vẫn quyết gắng sức lần chót bằng cách yêu cầu Hương bổ nhiệm tôi chỉ huy quân đội. Tất cả chúng tôi ai cũng muốn chiến đấu, nhưng nếu không được ủng hộ thì cũng chẳng làm nên trò trống gì…”. Với ý nghĩ đó, ngay lập tức, Nguyễn Cao Kỳ lái xe đến dinh Tổng thống để gặp Trần Văn Hương.
“Ngay khi tới dinh Độc Lập, tôi được đưa vào gặp Tổng thống Trần Văn Hương. Tôi nói: Xin Tổng thống bổ nhiệm tôi làm Tư lệnh quân lực. Xin cho tôi một chức vụ chính thức để tôi có thể nêu cao danh dự của Việt Nam Cộng hòa.
Hương là một cụ già kề miệng lỗ. Ông ta trả lời tôi, giọng ngập ngừng và thỏ thẻ: “Tôi không thể làm như vậy được. Một người đã từng làm Phó tổng thống và Thủ tướng không thể đột nhiên trở lại làm Tư lệnh quân lực. Không thể được, nhưng có lẽ vài ngày nữa, tôi có thể bổ nhiệm Thiếu tướng làm phụ tá đặc biệt về quân sự”.
Tôi kêu lên: Nhưng Tổng thống không thể đợi được vài ngày đâu. Tôi không cần nghi thức. Tôi muốn lãnh đạo quân đội ngay bây giờ.
Hương lắc đầu - và điều này có nghĩa là không một người nào trong chúng tôi có thể chiến đấu được…”.
Cứ tưởng Nguyễn Cao Kỳ đã chịu khoanh tay, nhưng không! Khi Phi đội Quyết Thắng của ta thực hiện phi vụ ném bom sân bay Tân Sơn Nhất; ngày 26 và 27-4, pháo lớn của ta liên tục nã đạn vào sân bay và nhiều vị trí nội đô, thì sự cuồng chiến của cựu Tư lệnh không quân Sài Gòn đã bộc lộ, không hề giấu diếm:
“Ba giờ chiều ngày 28, hai chiếc máy bay của Cộng quân nhào xuống mở đầu cho một cuộc tấn công tập trung vào sân bay. Cộng sản biết rằng mất sân bay thì Sài Gòn cũng mất. Quả bom hạng nặng đầu tiên rơi cách nhà tôi 300m…
Khoảng 9 giờ 30 tối, Cộng quân bắt đầu nã súng cối và tên lửa và đến 11 giờ đêm thì tôi không còn khoanh tay ngồi nhìn được nữa.
Tôi nói với vài anh phi công và một anh hoa tiêu: Chúng ta hãy bay lên xem sao. Chúng tôi lao ra máy bay trực thăng của tôi, nổ máy và bay lên vòng chỗ này chỗ nọ. Chỗ nào cũng có đám cháy, những ngọn lửa liếm đến sát vòng ngoài căn cứ không quân, và chúng tôi có thể dễ dàng nhận ra những vị trí chiến đấu chính của Cộng quân vì nghe tiếng máy bay lên thẳng của tôi là họ nổ súng.
Giàn tên lửa lớn nhất hình như đặt gần đài phát thanh. Không một máy bay nào có thể cất cánh từ những đường băng của sân bay đã bị bom khoét nhiều hố sâu, nhưng từ trên không, tôi liên lạc được với căn cứ không quân ở đồng bằng sông Cửu Long. Tại đây, người ta chất bom 750 pao lên 4 chiếc máy bay. Khi máy bay đến thì không còn thời giờ để chọn mật mã nữa, tôi hét lên trong radio: Đây là thiếu tướng Kỳ. Hãy tìm ra vị trí tên lửa và tiêu diệt nó đi.
Từ trên máy bay lên thẳng, tôi theo dõi họ bay vào vị trí, hướng dẫn họ… cho tới khi họ tới đúng mục tiêu. Họ đã tiêu diệt được giàn tên lửa lớn nhất.
Khi hết xăng, tôi xoay xở đáp được xuống sân kho xăng Shell ở Nhà Bè ngoại ô thành phố để đổ đầy xăng. Tại đây đã có hàng chục máy bay lên thẳng xếp hàng chờ đổ xăng. Bây giờ ai cũng chờ kết cục… Đối với những người đã hết bom đạn, tôi bảo họ đổ đầy xăng rồi bay trở lại Cần Thơ. Với những người còn bom đạn, tôi bảo họ quay về Sài Gòn nhả hết bom và bắn hết đạn lên đầu Cộng quân lúc này đã tiến đến sát hàng rào Tân Sơn Nhất, rồi sau đó cũng sẽ bay đi Cân Thơ”.
Trở lại Bộ tư lệnh Không quân ở Tân Sơn Nhất, Cao Kỳ được Tư lệnh không quân cho biết là người Mỹ đã cho lệnh di tản cả người và máy bay F-5 sang Thái Lan và Philippin. Trong tình thế tuyệt vọng cực độ, Cao Kỳ vẫn cố níu lấy một hy vọng nào đó: “Trèo lên máy bay lên thẳng của mình, tôi bay đến Bộ Tổng tham mưu. Có lẽ tôi sẽ liên lạc được với những đơn vị khác và thuyết phục họ tổ chức lại lực lượng để chiến đấu. Nhưng ở Bộ Tổng tham mưu, người ta nói với tôi là Tổng tham mưu trưởng đã từ chức và rời Việt Nam hai ngày trước đó. Khu nhà này trước đây tấp nập hàng nghìn sĩ quan và binh sĩ, giờ đây vắng ngắt. Tôi lên văn phòng Tổng Tham mưu trưởng và thấy tướng ba sao Đồng Văn Khuyên ngồi đó, làm quyền Tổng Tham mưu trưởng. Tôi cố gắng liên lạc với hải quân và các đơn vị khác nhưng không có kết quả. Tội nghiệp tướng Khuyên, ông bơ vơ một mình.
Đến 11 giờ 30 sáng, nhìn lên bầu trời Sài Gòn, tôi thấy đầy máy bay của hãng hàng không Mỹ. Điều này có nghĩa là cuộc di tản các viên chức Mỹ và Nam Việt Nam đã bắt đầu.
Lúc ấy tôi mới biết rằng mọi hy vọng đã tiêu tan… Và tôi cũng quyết định ra đi…!”.
*
Với đại thắng mùa Xuân 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng Sài Gòn - Gia Định, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Một người tự nhận là chống Cộng khét tiếng như Nguyễn Cao Kỳ cuối cùng cũng đã nhanh chân “tẩu vi thượng sách” di tản ra nước ngoài. Chính những năm tháng phiêu dạt ở xứ Cờ hoa, một con người từng cho mình quyền kiêu hãnh, cao ngạo cuối cùng cũng tự thấy phải “ngã mũ” trước Cộng sản Bắc Việt: “Khi còn đứng đầu chính quyền Việt Nam Cộng hòa, tôi đã nhiều lần chủ trương phải “Bắc tiến” để thống nhất đất nước, thế nhưng cuối cùng chúng tôi đã không làm được điều ấy. Ngược lại, những người miền Bắc đã làm được cuộc “Nam tiến” và thống nhất xứ sở. Tôi nghĩ rằng mình đành phải ngả mũ và chấp nhận kết quả hiển nhiên của thực tế!”*.
Về phần mình, khi đọc được mấy dòng “điều trần” trong dự thảo tự truyện của Nguyễn Cao Kỳ, tôi luôn tâm niệm: Nếu những ngày lưu trú ở xứ Cờ hoa, Nguyễn Cao Kỳ công khai “điều trần” kể trên của mình trước bàn dân thiên hạ, thì khi đó trong ý nghĩ của nhiều người, Ông hoàn toàn không còn là một Nguyễn Cao Kỳ di tản, Nguyễn Cao Kỳ lưu vong…!
Duy Nguyễn
___________
*Các đoạn trích đặt trong ngoặc kép, được dẫn từ bản thảo hồi ký “Bắc một nhịp cầu” của Nguyễn Cao Kỳ.