Logo-print CƠ QUAN CỦA TRUNG ƯƠNG HỘI - TIẾNG NÓI CỦA CỰU CHIẾN BINH VIỆT NAM

Ông Dương Mạc Thạch (Xích Thắng) trong ký ức của tôi

Nguyễn Văn Tông 30/12/2025 - 10:56

(Tiếp theo và hết)

Bài 2: Đảng phân công việc gì cũng cố gắng làm cho tốt

Thời kỳ ông Dương Mạc Thạch làm Chủ tịch Uỷ ban hành chính tỉnh Hà Giang có lẽ là giai đoạn vất vả nhất. Năm 1959-1960, tàn quân Tưởng Giới Thạch và bọn phản động kích động dân chúng nổi phỉ ở Đồng Văn. Khi đó ông đang học trường Nguyễn Ái Quốc thì được Bác Hồ và Thủ tướng Phạm Văn Đồng bí mật giao nhiệm vụ lên Đồng Văn vận động, thuyết phục “Vua Mèo” Vương Chí Sình cảnh giác với âm mưu phá vỡ khối đoàn kết toàn dân; nhắc nhở, động viên đồng bào tập trung làm ăn, ngăn chặn không cho người dân đi theo thổ phỉ.

ong-duong-mac-thach-thu-hai-tu-trai-sang-khi-lam-dai-dien-bo-quoc-phong-tai-chien-khu-viet-bac
Ông Dương Mạc Thạch (thứ hai từ trái sang) khi làm đại diện Bộ Quốc phòng tại chiến khu Việt Bắc.

Hai chuyến đi “biệt phái” chỉ có ông và một bảo vệ tên là Thượng, cả hai người đều biết tiếng Mông và giỏi võ. Hai thầy trò với 2 con ngựa đóng giả làm thầy phong thủy lên Sà Phìn gặp “Vua Mèo”. Ngày đi đêm nghỉ, tranh thủ lúc nghỉ nói chuyện với bà con để nắm tình hình. Khi gặp Vương Chí Sình, ngoài thăm hỏi động viên, ông còn gợi ý sau này yên bình Chính phủ sẽ mở con đường lên Đồng Văn, Mèo Vạc để phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của đồng bào trên cao nguyên đá... Với thái độ chân thành, ông đã được Vương Chí Sình đón tiếp niềm nở, cùng nhau ôn lại kỷ niệm về Bác Hồ, hứa sẽ một lòng theo Đảng, không phụ lòng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bầu cử Quốc hội khóa II, cả ông Dương Mạc Thạch và Vương Chí Sình đều được bầu là đại biểu Quốc hội của tỉnh Hà Giang.

Giữ lời hứa với thủ lĩnh vùng biên ải, ông Dương Mạc Thạch cùng bảo vệ tên là Hèo đã đi bộ hàng trăm cây số để khảo sát, tìm cách mở đường. Ông còn nhiều lần cùng kỹ sư giao thông trẻ Phạm Đình Dy (khi đó là cán bộ Ty Giao thông, cũng chính là tác giả cây cầu sắt Yên Biên I bắc qua sông Lô ở TP. Hà Giang, sau này là Bí thư Tỉnh ủy Hà Tuyên) đi thực địa.

Các cán bộ nòng cốt của vùng cao núi đá như: Vương Quỳnh Anh, Vừ Mí Kẻ, Kim Xuyến Lượng, Đặng Hồng Hải, Viên Thế Nghiêu, Sùng Đại Dùng, Mã Chính Lâm là những cán bộ trẻ được ông dìu dắt, sau này đều phát triển, giữ các chức vụ chủ chốt ở tỉnh. Ông Vừ Mí Kẻ, người được nhân dân các dân tộc vùng cao tin yêu bầu làm đại biểu Quốc hội 5 khóa liền.

Sau nhiều lần thực địa cùng các cán bộ chuyên môn, lãnh đạo tỉnh đã quyết định phải mở con đường lên cao nguyên thật sớm. Ngày 10-9-1959, tại thị xã Hà Giang, Bộ Giao thông - Vận tải, Trung ương Đoàn Thanh niên lao động Việt Nam và tỉnh Hà Giang tổ chức lễ khởi công mở con đường mang tên “Hạnh Phúc” từ Hà Giang đi Đồng Văn, Mèo Vạc. Công trình thu hút hơn 1.300 nam nữ thanh niên xung phong từ 6 tỉnh Việt Bắc (Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang) và 2 tỉnh đồng bằng (Nam Định, Hải Dương), cùng hàng ngàn lượt dân công của 16 dân tộc sinh sống trên cao nguyên đá bắt tay vào mở đường.

Với dụng cụ lao động vô cùng thô sơ, như cuốc, xẻng, búa tạ, xà beng, xe cút kít..., trong điều kiện làm việc vô cùng gian khổ, thiếu dầu, thiếu lương thực, thiếu muối, thiếu nước, thiếu rau xanh..., vật vã với khí hậu khắc nghiệt của vùng cao núi đá, mùa hạ nóng như rang, mùa đông rét cắt da cắt thịt, hàng ngày vẫn có cả ngàn người lao vào đục đá mở đường.

Ngày 9-9-1963, con đường đã vươn đến thị trấn Đồng Văn. Sau 4 năm, với trên 2 triệu ngày công, tuyến đường dài 164km đã hoàn thành trong muôn vàn gian khổ hy sinh của các lực lượng tham gia. Để hoàn thành con đường, 10 công nhân đã vĩnh viễn nằm lại trên cao nguyên.

Vùng cao núi đá đã có con đường to, rộng, kéo dài từ thị xã Hà Giang tới tận Đồng Văn, Mèo Vạc. Có một người lặng lẽ “sống chết” với con đường đó, chính là ông Dương Mạc Thạch - Chủ tịch Ủy ban hành chính tỉnh. Ông đã dành nhiều tâm sức nghiên cứu, xúc tiến mở đường, rồi trực tiếp đôn đốc các ban ngành cung cấp lương thực và các nhu yếu phẩm cho thanh niên xung phong, mong con đường sớm hoàn thành từng ngày.

Chuyện Bí thư Tỉnh ủy Lê Văn Lương và Chủ tịch tỉnh Dương Mạc Thạch mang cơm nắm muối vừng sắn quần đi cơ sở luôn in đậm trong tâm trí người dân vùng cao Hà Giang. Thời ấy với Hà Giang, định cư là một cuộc cách mạng và ông Dương Mạc Thạch là người hiểu hơn ai hết vai trò của định canh, định cư để người dân “an cư lạc nghiệp”. Am hiểu tâm lý người dân tộc thích sống du canh, du cư, ông kiên trì chỉ đạo các ban ngành, địa phương vận động đồng bào, người ở đâu làm ăn ở đấy, chỗ nào khai phá được thì làm lúa nước, nơi nào không có đất thì hạ sơn, đến các vùng còn hoang hóa khai phá ruộng vườn, sống xen kẽ với người Tày, Nùng rồi chỉ đạo thành lập các tổ đổi công, hợp tác xã...

Một lần, khi uống rượu với cha tôi, ông hỏi: “Bác Chủ nhiệm hợp tác xã, làm ăn tập thể thế nào? Theo bác có hay hơn làm cá thể không?”. Cha tôi trả lời: “Mọi người phấn khởi hơn vì nghèo cũng được làm ruộng, nhưng nhiều người chưa có ý thức, chưa coi việc của Hợp tác xã như việc của nhà mình nên làm ẩu và lười!”. Ông cười: “Giáo dục dần thôi bác ạ. Ngày xưa làm một vụ ăn cả năm, bây giờ người đông lên, không chăm làm là đói”. Cha tôi bảo: “Có 3 hộ vừa xin ra hợp tác, chú bảo phải làm thế nào?”. Ông trầm ngâm: “Tự nguyện mà bác. Nếu Hợp tác xã làm ăn kết quả tốt, thấy nhiều thóc mọi người lại tự nguyện vào thôi”.

ong-duong-mac-thach-dung-dau-hang-cung-dong-doi-tai-chien-khu-viet-bac-0949
Ông Dương Mạc Thạch (đứng đầu hàng) cùng đồng đội tại chiến khu Việt Bắc.

Qua những cuộc trò chuyện và quan sát như vậy, ông đã tìm ra các phương thức làm ăn hiệu quả cho người nông dân. Ông Thạch còn lặn lội về quê nhà vận động đưa thợ làm đường nâu sang Hà Giang hướng dẫn người dân bản địa ép mía lấy mật, làm đường, hình thành một ngành nghề sản xuất mới cho người dân.

Anh Dương Mạc Bằng - con trai út của ông Xích Thắng nhớ lại, hồi ấy, thị xã Hà Giang và các huyện chỉ dùng điện máy nổ chạy diezen. Điện thắp sáng các cơ quan công sở chỉ đến 10 giờ, thời gian còn lại vẫn chỉ dùng đèn dầu. Để có điện phục vụ đời sống, tỉnh đã ra quyết nghị thi công xây dựng 2 nhà máy thủy điện nhỏ tại xã Phương Độ và Phương Tiến. Đây là hai nhà máy thủy điện đầu tiên của tỉnh Hà Giang.

Vào một ngày chủ nhật, ông Thạch mặc quần áo bảo hộ lao động, đi bộ lên kiểm tra Trạm thủy điện 302 ở Hạ Thành - Phương Độ, rồi lên 304 ở Suối Sửu - Phương Tiến, cả đi và về là 24km đường rừng. Sau khi kiểm tra xem xét các hạng mục quan trọng của công trình, nơi ăn chốn ở của công nhân... lòng ông nặng trĩu ưu tư. Mới quá, lạ quá, làm sao có thể hoàn thành công trình nhanh nhất để nâng cao đời sống của người dân?

Trên đường trở về, ông gặp một nhóm người ăn mặc như đi lễ đang vây quanh một tảng đá to ở Suối Sửu, ông dừng lại hỏi thăm bà con. Một người kể: Gia đình này sinh được đứa con gái nhưng nó cứ ốm yếu mãi. Thầy Tào bảo, đứa bé này phải ăn cơm nhà ông nào tên Thin (Đá) mới sống làm người được. Tìm khắp vùng không có ai tên như vậy nên ra đây cúng nhận tảng đá làm cha đỡ đầu. Hiểu chuyện, ông cười lớn, “Các anh gặp may rồi, tôi tên là Thạch tức là đá đây!”.

Mọi người ồ lên vui mừng, mời ông về nhà uống rượu làm lễ nhận bố nuôi cho đứa bé. Thực ra, ông biết cô bé chỉ bị suy dinh dưỡng, ông ân cần chỉ bảo gia đình đưa cháu lên bệnh viện kiểm tra và cố gắng cho cháu ăn uống đầy đủ, đêm ngủ phải mắc màn, không để muỗi đốt... Ông còn cho các con nhận cô bé là em nuôi để làm phước và từ đó, lễ, tết ông đều có quà cho cô con gái nuôi, quan hệ giữa hai gia đình rất thân thiết.

Thời ấy, ranh giới giữa con quan chức với con người dân bình thường hay giàu và nghèo không như bây giờ. Chị Dương Mạc Thu Hằng là giáo viên, con gái trưởng ông Thạch, cũng giản dị như bao công chức thời ấy. Anh Dương Mạc Thăng học xong cấp III cũng đi bộ đội như mọi người, tốt nghiệp phổ thông anh được đi Cu Ba du học. Về nước anh làm giảng viên trường Đại học Nông nghiệp III Bắc Thái. Sau này trở về quê hương Cao Bằng anh làm Bí thư huyện ủy Nguyên Bình rồi vào Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, Bí thư Tỉnh ủy. Anh Dương Mạc Bằng là kỹ sư nông nghiệp công tác ở Phòng Nông nghiệp huyện quê nhà. Với mọi người, các chị, các anh vẫn rất gần gũi, thân tình, không hề có đặc quyền đặc lợi nào.

Năm 1972, Đại tướng Võ Nguyên Giáp tổ chức cuộc gặp mặt các đồng chí cán bộ cùng hoạt động trong thời kỳ bí mật ở Cao Bằng tại Quân Khu Việt Bắc, không thấy ông Dương Mạc Thạch, Đại tướng hỏi: “Xích Thắng đâu? Sao không thấy Xích Thắng?”. Khi biết ông Dương Mạc Thạch không đến dự được do bị chảy máu dạ dày, Đại tướng đã ra lệnh cho Văn phòng Quân khu đưa ông Xích Thắng lên máy bay trực thăng của Đại tướng về Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 để điều trị. Hơn ba chục năm đã qua, mà Đại tướng vẫn luôn nhớ và thương người em kết nghĩa từng đắp chăn sui, ngủ hang đá, ăn rau rừng, vào sinh ra tử cùng ông.

Sau gần 20 năm gắn bó với Hà Giang, sức khỏe ông không còn như xưa, năm 1970 Trung ương điều ông Dương Mạc Thạch về làm Bí thư Đảng uỷ Trường Đại học Nông nghiệp III Bắc Thái - một chức vụ thấp hơn rất nhiều so với các chức vụ ông từng đảm nhiệm. Nhưng có hề gì, với ông, giản đơn là Đảng phân công, việc gì cũng phải cố gắng làm cho tốt. Đến tháng 8-1978 ông được nghỉ chế độ và trở về sống tại quê hương Nguyên Bình, Cao Bằng và mất một năm sau đó. Ngôi mộ của ông nằm ngay chân núi nơi ông bước chân đi làm cách mạng.

Ông Dương Mạc Thạch là người đã có nhiều cống hiến cho đất nước. Tên tuổi của ông không chỉ gắn bó với Cao Bằng, Bắc Kạn, Yên Bái mà cả với Hà Giang - vùng quê nghèo khó của tôi, tôi càng thêm yêu và kính trọng ông. Tôi nghĩ, Hà Giang (nay là tỉnh Tuyên Quang) nên có một con đường hay một ngôi trường mang tên Dương Mạc Thạch hay Xích Thắng, đều rất ý nghĩa. Bởi ông không chỉ là một nhân vật lịch sử, mà còn là người có nhiều cống hiến cho sự phát triển của mảnh đất biên cương Hà Giang xa xôi. Với cả cuộc đời cống hiến cho đất nước, ông đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh; Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Nhất.

Đọc tiếp

Mới nhất

Ông Dương Mạc Thạch (Xích Thắng) trong ký ức của tôi