Tập thể cán bộ y sĩ, bác sĩ Đội điều trị 14 trong rừng Trường Sơn năm 1966. Ảnh Tư liệu
Đội điều trị 14
Đội điều trị 14 (Binh trạm 12, Đoàn 559) thành lập ngày 14-3-1966. Đội đóng trong một thung lũng hẹp, tương đối gần đường chiến lược 15, cách xã Hóa Tiến, Tuyên Hóa, Quảng Bình, chừng 3km đường chim bay. Thời gian đầu, Đội điều trị 14 có trên 100 cán bộ, nhân viên; trong đó có 4 bác sĩ, 10 y sĩ, 2 dược sĩ, hơn một chục y tá, dược tá, hộ lý. Tuy là đội điều trị nhưng thực tế Đội làm nhiệm vụ như một bệnh viện khu vực. Bình thường Đội chỉ nhận khoảng 150-200 thương - bệnh binh; nhưng có thời kỳ cao điểm địch đánh ác liệt, tắc đường, thương - bệnh binh ùn lại, số lượng phải nhận lên đến 400-500 người.
Ban ngày anh em chúng tôi điều trị cấp cứu, mổ xẻ; tối đến, khiêng số thương bệnh binh đã tương đối ổn định ra đường 15 để ô tô chuyển về tuyến sau. Nửa đêm hoặc bất cứ lúc nào nghe 3 tiếng súng báo hiệu có thương binh là mấy anh em lục tục mũ áo, ni lông, cáng võng ra đường khiêng thương binh về mổ cấp cứu, tiêm chọc suốt đêm…
Thấy việc vận chuyển thương binh của đơn vị bạn về Đội điều trị rất khó khăn, thường khi một hai ngày mới về đến nơi, vết thương đã nhiễm trùng, nhiều trường hợp nguy hiểm đến tính mạng..., nên Chỉ huy Đội điều trị 14 đề nghị Thủ trưởng Binh trạm cho phép thành lập các đội phẫu thuật lưu động đi chốt tại các trọng điểm để kịp thời cấp cứu thương binh. Đề xuất này được cấp trên đánh giá cao.
Đội phẫu thuật và những mùa khô
Đầu mùa khô 1966-1967, Đội phẫu thuật do tôi làm Đội trưởng, gồm 10 người được cử xuống các trọng điểm La Trọng, Cổng Trời (đường 12). Trừ chị nuôi phải gánh theo nồi niêu, xoong chảo và dụng cụ đựng trong một đôi bồ nhỏ, còn quân y sĩ mỗi người phải mang hai ba lô (một đựng thuốc men, đồ nghề, một đựng trang bị cá nhân). Chúng tôi lên đường vào lúc sẩm tối một ngày đầu tháng. Cả đội lần theo một con đường nhỏ, gồ ghề; lúc xuống dốc, khi vượt đèo. Có chỗ trơn như đổ mỡ. Càng lên cao, gió càng thổi dữ. Cây cối ngả nghiêng; cành khô gãy răng rắc, nghe rợn người! Chưa hết, đám vắt bị đói lâu ngày, giấu mình dưới những lớp lá mục, thấy hơi người, ngóc đầu dậy, đo mình thoăn thoắt bám lấy chân chúng tôi mà hút máu. Những con vắt xanh còn dữ dằn hơn. Chúng bám vào bẹn, vào nách, thậm chí chui cả vào ngực, cổ và cả nhưng nơi “thâm hiểm” nhất. Có cô sợ hãi quá thét lên, nhờ người gỡ giúp, quên đi cả nỗi thẹn thùng… Chúng tôi cứ đi như vậy trong đêm vắng. Tầm nửa đêm mới leo đến đỉnh dốc. Dừng nghỉ một lúc lấy hơi rồi lại tụt dốc, lên dốc… Hai chiếc ba lô cứ thay nhau dồn sức nặng, khi xuống dốc thì đè lên lưng, khi lên dốc thì kéo giật lại. Nếu không có chiếc gậy “Trường Sơn” chống đỡ thì rất dễ lăn xuống vực cả người lẫn ba lô.
Cứ đi bộ vượt hết dốc này đến dốc khác, cuối cùng chúng tôi cũng đến được nơi cần đến. Bác Biên - Bệnh xá trưởng cùng nhân viên bệnh xá đón chúng tôi rất thân tình, làm vơi đi bao nỗi nhọc nhằn vất vả vừa qua. Định tranh thủ nghỉ ngơi một lúc cho đỡ mệt, nhưng vừa đặt lưng xuống thì tiếng bom tọa độ đã ầm ầm phía Bãi Dinh, xen lẫn tiếng pháo cao xạ của ta từ các trận địa chốt giữ trọng điểm bắn trả máy bay dữ dội. Thế là tất cả bật cả dậy, khẩn trương chuẩn bị để đón “khách không mời”. Quả nhiên, chưa đầy một giờ sau, anh chị em Đại đội 7 thanh niên xung phong (TNXP) đã chuyển đến 4 thương binh, trong đó có 1 thương binh bị thương ở bụng và cột sống.
Kiểm tra lại viết thương của anh, chúng tôi quyết định mổ sớm, khâu những chổ ruột bị thủng và lấy mảnh bom đã làm đứt tủy sống, gây liệt hai chi dưới. Công việc hậu phẫu với ca này phức tạp hơn ở những thương binh khác rất nhiều. 48 giờ sau, anh vẫn chưa trung tiện được, bụng mỗi lúc một trướng căng. Nhìn vẻ mặt đau khổ của thương binh, ai cũng thầm ước có được một cái xông En-no để hút dịch trong dạ dày ra, khi đó thương binh sẽ đỡ hơn nhiều. Nhưng kiếm đâu ra ở nơi chiến trường rừng núi này! Cô Thảo - y tá chợt nhớ ở địa phương cô, hễ bị trướng bụng, người ta thường nướng quả bồ kết, tán thành bột, nhét vào hậu môn, một lúc sau người bệnh sẽ trung tiện được. Nghĩ vậy, Thảo chạy xuống Đại đội 7 TNXP xin chị em mấy quả bồ kết làm thử, nhưng không kết quả. Ai cũng băn khoăn, thất vọng. Đột nhiên, y sĩ Định reo lên:
- Có xông hút dịch dạ dày rồi thủ trưởng ạ!
- Đâu, đâu? - tôi mừng rỡ hỏi.
Định chỉ vào dây truyền huyết thanh bằng nhựa và nói:
- Cắt một đầu thật nhẵn, khoét thêm hai hay ba lỗ bầu dục ở bên cạnh, rồi luồn qua lỗ mũi vào dạ dày, chắc là hút được dịch ra?
- Giỏi, giỏi! Sáng kiến của cậu quý như vàng! Quay sang phía Tám, Sinh, Nảy, tôi giục: Các cô kiếm cho tôi cái dây truyền cũ, chúng ta làm thử xem.
Quả nhiên, chỉ sau chừng mười lần hút, dịch dạ dày ra rất nhiều. Bụng anh thương binh bớt trướng căng; vài giờ sau thì anh trung tiện được. Đến ngày thứ 14, vết thương của anh đã dần liền sẹo. Chúng tôi chuyển anh về tuyến sau trên một chiếc xe Gát, được trải “đệm” lá khô dày 20cm; hai bên cáng được chèn hai bao tải gạo…
Tin vui Đội phẫu thuật ra quân, bước đầu mổ cấp cứu tại trọng điểm La Trọng, cứu sống một thương binh nặng nhanh chóng lan khắp các đơn vị trong khu vực, đặc biệt là Tiểu đoàn 13, Trung đoàn 84 cao xạ 37ly. Sau đó ít ngày, đơn vị này bắn rơi một máy bay, bắt sống giặc lái ở gần đèo Mụ Giạ. Đồng chí Huynh - Chính trị viên tiểu đoàn thông báo tin vui này và coi chiến cống này có phần đóng góp của Đội phẫu thuật chúng tôi.
Sau một thời gian bám trụ làm nhiệm vụ ở trọng điểm La Trọng, Đội phẫu thuật chúng tôi được lệnh rời La Trọng lên chốt ở cây số 34, trọng điểm Cổng Trời. Ở đây, có đợt chúng tôi nhận một lúc gần hai chục thương binh, trong đó có 6 thương binh bị thương vùng bụng và ngực, tôi phải đứng mổ liên tục hai - ba ngày mới hết.
Đại tá, Anh hùng LLVTND, TTƯT. Tạ Lưu