Chủ tịch Hồ Chí Minh - Lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam - Người cũng là cha đẻ của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Người yêu thương chiến sĩ như con và Người cũng đặc biệt quan tâm đến thương binh, liệt sĩ - những người đã hy sinh xương máu, cuộc đời mình vì độc lập, tự do của Tổ quốc.
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Bác Hồ đã nghĩ đến công ơn của các thương binh, liệt sĩ. Ngày 23-9-1945, thực dân Pháp nổ súng tấn công Sài Gòn. Nhân dân Nam Bộ chưa kịp hưởng niềm vui độc lập và cuộc sống thanh bình lại phải tiếp tục vùng lên cứu nước. Để bảo vệ Tổ quốc thân yêu, rất nhiều người con ưu tú của dân tộc đã hiến dâng tuổi thanh xuân và cả cuộc đời mình cho đất nước. Họ đã ngã xuống trên chiến trường miền Nam hoặc khi trở về đã mang thương tật suốt đời vì nền độc lập, tự do và thống nhất đất nước. Trước tình thế đó, tháng 12-1945, trong thư “Gửi các chiến sĩ Nam Bộ và Nam phần Trung Bộ”, Bác tin tưởng rằng: “Với một nước đã có những người con hy sinh như thế, anh hùng như thế, đã có một khối toàn dân đoàn kết như thế, nước ta nhất định không mất lại một lần nữa. Để bảo vệ Tổ quốc, chúng ta còn phải chiến đấu nhiều. Chỉ có chiến đấu mới vượt được những trở lực, khó khăn, chỉ có chiến đấu mới đưa lại vẻ vang cho Tổ quốc. Các bạn ở tiền tuyến không bao giờ cô độc, vì đã có cả một khối đoàn kết làm hậu thuẫn cho mình. Thắng lợi cuối cùng nhất định về ta”.
Nhằm chia sẻ nỗi đau của hàng triệu thân nhân liệt sĩ, những bậc ông bà, cha mẹ, những người chồng, người vợ và những người con đã mãi mãi không thể gặp lại những người thân yêu nhất của mình, trong bức thư đăng trên báo Cứu quốc ngày 7-1-1946, Người viết: “Vì muốn thay mặt Tổ quốc, toàn thể đồng bào và Chính phủ cảm ơn những liệt sĩ đã hy sinh tính mệnh cho nền tự do, độc lập, thống nhất của nước nhà, hoặc trong thời kỳ cách mạng, hoặc trong thời kỳ kháng chiến, tôi gửi lời chào thân ái đến các gia đình liệt sĩ và tôi nhận các con liệt sĩ làm con nuôi của tôi".
Ngày 7-11-1946, Người đến dự lễ “Mùa đông binh sĩ” do Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam tổ chức tại Nhà hát Hà Nội, vận động đồng bào ở hậu phương đóng góp tiền của để may áo trấn thủ cho chiến sĩ, thương binh, bệnh binh.
Cuộc kháng chiến chống Pháp của cả dân tộc đã thu hút nhiều thanh niên nam nữ hăng hái tham gia quân đội. Một số chiến sĩ đã hy sinh anh dũng, một số nữa là thương binh, bệnh binh, đời sống của họ gặp nhiều khó khăn .
Trước tình hình ấy, tháng 6-1947, Hồ Chủ tịch đề nghị Chính phủ chọn một ngày nào đó trong năm làm “Ngày thương binh” để đồng bào ta có dịp tỏ lòng hiếu nghĩa, yêu mến thương binh. Hưởng ứng và đáp lại tấm lòng của Hồ Chủ tịch, một Hội nghị trù bị khai mạc tại xã Phú Minh, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, có sự tham dự của một số đại biểu ở Trung ương, cấp khu và tỉnh. Sau khi dân chủ thảo luận, Hội nghị nhất trí lấy ngày 27-7 hằng năm làm “Ngày Thương binh" và tổ chức ngay lần đầu trong năm 1947.
Báo Vệ Quốc quân, số ra ngày 27-7-1947 đăng thư của Hồ Chủ tịch gửi Thường trực Ban tổ chức Ngày Thương binh toàn quốc. Mở đầu thư, Người viết: “Đang khi Tổ quốc lâm nguy, giang sơn, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà thờ của tổ tiên ta bị uy hiếp. Cha mẹ, anh em, vợ con, ao vườn, làng mạc bị nguy ngập. Ai là người xung phong trước hết để chống cự quân thù? Đó là những chiến sĩ mà nay một số đã thành ra thương binh”.
Cuối thư, Người kêu gọi đồng bào nhường cơm xẻ áo giúp đỡ thương binh. Bản thân Người đã tình nguyện góp một chiếc áo lụa, một tháng lương và nhịn ăn một bữa để tặng thương binh.
Ngày 27-7-1948, trong một lá thư dài đầy tình thương yêu, Người nói: “Nạn ngoại xâm như trận lụt to, đe dọa tràn ngập cả non sông Tổ quốc, đe dọa cuốn trôi cả tính mệnh, tài sản, chìm đắm cả bố mẹ, vợ con, dân ta. Trong cơn nguy hiểm ấy, số đông thanh niên yêu quý của nước ta quyết đem xương máu của họ đắp thành bức tường đồng, một con đê vững để ngăn cản nạn ngoại xâm tràn ngập Tổ quốc, làm hại đồng bào”. Và “Họ quyết liều chết chống địch, để Tổ quốc và đồng bào sống. Ngày nay, bố mẹ họ mất một người con yêu quý. Vợ trẻ trở thành bà góa. Con dại trở nên mồ côi. Trên bàn thờ gia đình thêm một linh bài tử sĩ. Tay chân tàn phế của thương binh sẽ mãi không mọc lại được. Và những tử sĩ sẽ không thể tái sinh”.
Năm 1949, Người lại gửi tặng anh chị em thương binh một số khăn mặt, áo quần và một tháng lương. Năm 1950, Người gửi tặng thương binh và gia đình liệt sĩ một tháng lương. Năm 1951, ngoài việc tặng thương binh mấy bộ áo quần, Người đề nghị “Chính quyền, đồng bào và các đoàn thể nhân dân trong mỗi xã trích một phần ruộng công, vận động đồng bào cầy cấy, lấy hoa lợi đón thương binh về xã. Anh em thương binh tùy sức mà làm công việc nhẹ, làm như vậy giúp lâu dài chứ không phải là giúp một thời gian”.
Sau đó, phong trào đón thương binh về làng do Hồ Chủ tịch kêu gọi đã được chính quyền, đoàn thể và đồng bào cả nước nhiệt liệt hưởng ứng, đặc biệt là mấy xã ở Thanh Hóa và Phú Thọ. Ngày 27-7-1952, trong thư gửi Bộ trưởng Thương binh - Cựu binh, Người đề nghị coi việc giúp đỡ thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ là một nghĩa vụ chứ không nên coi đó là một việc làm phúc. Người cũng căn dặn anh chị em thương binh “tránh tâm lý công thần, chớ bi quan chán nản, hòa mình với Nhân dân và luôn cố gắng”.
Năm 1954, sau khi Thủ đô được giải phóng, ngày 31-12, Người cùng các đồng chí Trung ương đến đặt vòng hoa trước Đài liệt sĩ - Đài mới được dựng trên khoảng đất rộng trong vườn hoa, cạnh Quảng trường Ba Đình, trước Phủ Chủ tịch.
Theo lời kể của ông Cù Văn Chước - người giúp việc Bác Hồ suốt 14 năm tại Phủ Chủ tịch, vào dịp 27-7 hằng năm, Bác Hồ thường xuyên viết thư thăm hỏi thương binh, gia đình liệt sĩ, nhắc nhở nhân dân thực hiện đạo lý "Uống nước nhớ nguồn” và động viên, biểu dương các địa phương, các đơn vị và cá nhân đã hết lòng giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sĩ. Đồng thời, Người thường gửi một tháng lương của mình, kèm đó, khi thì một bữa ăn, khi thì một món quà (do đồng bào gửi biếu) để tặng anh em thương binh. Người luôn động viên thương bệnh binh phải sống với tinh thần lạc quan "Thương binh tàn nhưng không phế". Bác lưu ý: "Khi đã khôi phục sức khoẻ phải hăng hái tham gia công tác sản xuất để trở nên người công dân kiểu mẫu. Bác chúc các gia đình liệt sĩ trở thành những "gia đình cách mạng gương mẫu".
Trước lúc đi xa về với cõi người Hiền, trong bản Di chúc thiêng liêng để lại muôn vàn tình thương yêu cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta, Người vẫn không quên căn dặn: “Ngay sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi, công việc đầu tiên đối với con người là chăm lo cho thương binh và những người có công trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình. Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn, chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”. Đối với các liệt sĩ ở mỗi địa phương, cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta. Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh, liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương phải giúp đỡ cho họ có công ăn việc làm thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”.