Tiếp theo kỳ trước)
Đàm Quang Trung là người duy nhất được Bác Hồ, Tổng quân uỷ giao cho trọng trách chỉ huy ba cuộc duyệt binh, diễu binh lịch sử: Cuộc duyệt binh chào mừng Ngày Quốc khánh 2-9-1945, Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình, Thủ đô Hà Nội. Ngày 29-3-1946, chỉ huy cuộc diễu binh thiện chí giữa quân đội ta và quân đội Pháp ở Vườn hoa Canh Nông (nay là Công viên Lênin). Ngày 1-1-1955, chỉ huy cuộc diễu binh đón mừng Trung ương Đảng, Bác Hồ và Chính phủ trở về Thủ đô sau 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi bằng Chiến thắng Điện Biên Phủ.
Đó là tóm tắt tiểu sử của ông. Riêng tôi mới được tiếp xúc với ông từ khi ông làm Tư lệnh Quân khu I, không hiểu vì lý do gì mà anh Bá Đàn - Tổng biên tập Báo Quân khu I rất hay cử tôi đi công tác với ông. Chắc anh nghĩ, tôi với ông đều là dân tộc Tày nên dễ làm việc. Ông coi tôi như con cháu trong nhà, có lần “nhờn mỡ” tôi trêu ông: “Bác ơi, sao Cao Bằng lắm tướng thế, đến thời điểm này là 18 vị, hồi học đại học với tôi, mấy anh ở Cao Bằng, cháu chả thấy ai khá khẩm cả!”.
Ông quắc mắt lên quát tôi: Không ai thông minh hơn ai cả, nhưng người Cao Bằng dám làm, dám đi. Tôi ấy à, Bác Hồ bảo: Chú phải vào Khu V, tôi - một cán bộ người miền núi, nói tiếng Kinh còn chưa sõi, nhưng khoác ba lô lên tàu đi ngay và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Còn dân Hà Giang các ông ấy à, chỉ ru rú núp váy vợ, nên cả hai cuộc kháng chiến có mỗi một ông tướng chiếu cố. Của đáng tội, lúc ấy cả tỉnh Hà Giang có mỗi ông Đào Triệu Minh Phó tư lệnh Quân khu I về hưu với cấp hàm đại tá quá thâm niên hưởng lương tướng. Mà cũng có phải người Hà Giang gốc đâu. Tôi xấu hổ chả biết giấu mặt vào đâu.
Nhớ lại năm 1972, khi tôi học Trường Quân chính Quân khu I, ông là Tư lệnh Quân khu IV về Thái Nguyên thăm gia đình, nhà trường mời ông vào nói chuyện. Cả tiếng đồng hồ chẳng thấy ông nói chuyện đánh đấm gì cả, chỉ thấy ông chỉ đạo Quân khu IV trồng rau, đào ao thả cá, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Nhà trường đang thất vọng tràn trề thì ông kết thúc buổi nói chuyện bằng câu: “Xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân là thế. Muốn đánh giặc lâu dài phải thế!”.
Về Quân khu I, việc đầu tiên ông giao cho chúng tôi là tuyên truyền về cây đậu tương. Ông bảo, quân mình đông, đất mình rộng sao lại không trồng, nhưng mà phải trồng nhiều, ngoài cải thiện cho bộ đội phải bán được, lấy tiền về mua cái khác mà dùng. Vậy là các sư đoàn đóng quân ở Cao Bằng, Lạng Sơn đến Hà Bắc, Bắc Thái đều ra quân khai hoang, trồng đỗ tương. Cái thời đậm chất bao cấp ấy việc làm của ông đã manh nha kinh tế thị trường.
Và thủy điện nhỏ, ông thành lập hẳn một bộ phận do Thiếu tá, kỹ sư Thăng phụ trách có nhiệm vụ khảo sát toàn bộ sông, suối trên địa bàn Quân khu để xây dựng nhà máy thủy điện. Quy mô nhỏ thôi nhưng đủ cung cấp điện cho các đơn vị bộ đội. Rồi công nghệ sinh học Bioga, từ năm 1982 trại chăn nuôi của Quân khu ở Ngân Sơn đã không phải đun củi, nhờ khí đốt từ phân trâu bò. Đơn vị nào trong Quân khu cũng có ao cá, vườn cây, trại chăn nuôi với quy mô lớn. Bây giờ ngẫm lại mới thấy ông là người đi trước thời đại dễ đến 50 năm.
Ngoại hình ông có vẻ dữ vậy, nhưng ông là người rất độ lượng, bao dung. Một lần, tôi viết sai về hướng làm kinh tế của bộ đội, ông gọi tôi lên phòng và ôn tồn: “Phải học bố trẻ ạ, viết thế này có mà người ta cười cho”. Rồi ông bày cách cho tôi viết bài cải chính. Tôi thấm thía và thầm nghĩ, vớ phải ông tướng khác không khéo mình mất sao.
Có câu chuyện nhỏ bây giờ tôi mới kể, tôi là người sửa morát một số báo đặc biệt, ngay dưới măng set chạy hàng chữ to, đậm: ...Thiếu tướng Đàm Quang Trung... đến dự và phát biểu... chẳng hiểu tâm trí để đâu, chữ u trong từ “Thiếu tướng” lại ra chữ n thế là thành “thiến tướng”.
May báo chưa phát hành, cả đêm chúng tôi toét mắt cắt dán gần vạn tờ báo. Khi tôi kể lại chuyện đó, ông cười khà khà và nói: “Mày mà không phát hiện ra là giết sống tao đấy”. Rồi ông hóm hỉnh kể, các cậu có biết tớ đeo quân hàm đại tá mười mấy năm không? Sinh thời Bác Hồ mấy lần nhắc tớ về “chuyện ấy” đấy. Năm 24 tuổi tớ đã là Chi đội trưởng, khiêm tốn mấy cũng phải thừa nhận tớ đẹp trai, có tài, con gái mê mệt vì tớ ấy chứ! Thế nên thằng này mới định thiến tao trên báo. Cả xe được một mẻ cười.
Năm 1989, khi Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam tổ chức sắp xếp lại các đơn vị, trong nghị quyết ghi rõ: ...Tùy điều kiện từng đơn vị bố trí sắp xếp cho hợp lý...”, thế là Cục Chính trị Quân khu I nhanh nhảu giải thể Báo và Đoàn văn công Quân khu. Khi đó, ông là Phó chủ tịch Hội đồng Nhà nước, tôi đem chuyện này nói với ông, ông cười và bảo: Quân khu I định học gương anh La Văn Cầu à? Sau này nghĩ lại mới thấy ông quá thâm thúy, đoàn văn công, báo chí là công cụ làm công tác tư tưởng, văn hóa, xóa sổ các đơn vị ấy cơ quan chính trị biết làm cái gì! Rồi sẽ thành lập lại thôi. Đúng như lời ông, Tướng Đàm Văn Ngụy - Tư lệnh Quân khu đi họp Quốc hội về, đã quyết định lập lại Đoàn Văn công Quân khu. Ông “xạc” cơ quan chính trị ngay tại hội trường: “Bố trí sắp xếp lại là tinh giản, làm gọn nhẹ và hiệu quả chứ không phải xóa sổ!”.
Tướng Đàm Quang Trung về cõi vĩnh hằng đã hơn 20 năm. Mỗi lần nghĩ về ông tôi chiêm nghiệm, hình như ông luôn đi trước thời đại hàng chục năm. Có những việc ông làm từ những năm 80 của thế kỷ trước, đến bây giờ ta làm vẫn không bằng ông từ nông nghiệp, thủy sản, thủy điện... đến công tác chính trị, tư tưởng ông đều hơn người. Còn chuyện này, bây giờ thì bình thường nhưng lúc ấy “thật khủng”: Ông đi viếng và chia buồn với gia đình Thượng tướng Chu Văn Tấn, xe về đến Phố Nỉ, tôi rụt rè hỏi ông: “Cụ đi thế không sợ vào sổ đen à?”. Ông quắc mắt: “Sợ gì? Về trồng rau, nuôi cá là cùng chứ gì! Ông ấy làm chính ủy, tao làm tư lệnh sống với nhau bao nhiêu năm, không đi còn ra cái giống gì”.
Bây giờ ngẫm lại càng thấy đúng, thế mới là tướng. Sự nghiệp oanh liệt là thế, song trong đời thường ông luôn gần gũi, hòa mình với bộ đội và nhân dân, ông hướng dẫn, vận động mọi người nuôi cá, trồng cây, rau màu như một kỹ sư nông nghiệp. Nhưng quan trọng nhất là ông kích thích tính năng động, sáng tạo ở mỗi con người trong cuộc sống. Đặc biệt, với quê hương, khi làm tư lệnh Quân khu, mặc dù nhà riêng ở Thái Nguyên nhưng năm nào ông cũng phải về Cao Bằng ít nhất vài lần. Về bản, ông tha thẩn tìm kỷ niệm xưa, tìm bạn cũ. Phố phường, đô hội không làm ông quên được nơi cắt rốn chôn rau. Tôi biết Cao Bằng, vẫn nguyên vẹn trong tâm trí ông.
Thậm chí trước tháng 2-1979 trong một lần về quê dưới trời mưa, ông mặc quần đùi xách đèn pin đi bắt ếch, lính Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 246 nghi thám báo Trung Quốc đã bắt ông về nộp cho tiểu đoàn. Chính trị viên tiểu đoàn Hoàng Quốc Doanh nhận ra Tư lệnh Quân khu thì thào vào tai tiểu đội trưởng: “Đây là Tư lệnh quân khu, hiểu chưa”. Còn Tướng Đàm Quang Trung thì không lấy làm phiền còn động viên: “Lính các ông cảnh giác cao, tốt đấy. Nhưng nói tục quá, dẫn tôi lên đây, chửi tôi không tiếc lời. May mà chưa đánh”. Mọi người cùng cười, lúc ấy trông ông không khác gì một ông ké trong bản.