Logo-print CƠ QUAN CỦA TRUNG ƯƠNG HỘI - TIẾNG NÓI CỦA CỰU CHIẾN BINH VIỆT NAM

ĐỘT PHÁ CỦA ĐỘT PHÁ TỪ YÊU CẦU THỰC TIỄN (Tiếp theo kỳ trước) Bài 2: QUYỀN CON NGƯỜI - NỀN TẢNG XÂY DỰNG VÀ THI HÀNH PHÁP LUẬT

Nguyễn Hòa Văn 10/10/2025 - 14:12

Con người luôn là trung tâm của mọi thời đại. Xã hội càng phát triển, trình độ văn minh càng cao thì quyền con người càng được bảo vệ và phát huy đầy đủ. Việc pháp luật bảo vệ quyền con người không chỉ là xu thế phát triển chung của nhân loại mà còn là động lực thúc đẩy quốc gia phát triển nhanh và bền vững.

Khi quyền con người được tôn trọng, bảo vệ và phát huy, một trong những mục tiêu quan trọng của cách mạng và của Đảng sẽ trở thành hiện thực. Quốc gia, Dân tộc và Nhân quyền là ba yếu tố cơ bản, quan trọng nhất trong không gian sinh tồn và phát triển của một đất nước. "Quốc gia" đề cập đến không gian địa lý, dân cư, chế độ chính trị, nhà nước và chủ quyền. "Dân tộc" gắn liền với nòi giống, lịch sử và văn hóa. Còn "Nhân quyền" là quyền con người và tất cả những gì liên quan đến việc đảm bảo quyền con người trên thực tế. Trong ba yếu tố này, việc triệt để tôn trọng, bảo vệ và phát huy quyền con người có tác động tích cực và mạnh mẽ nhất, giúp quốc gia hưng thịnh, dân tộc trường tồn. Trên thế giới, theo xu thế tiến bộ của nhân loại, các nước đều coi trọng vấn đề quyền con người. Tuy nhiên, ở đâu, thể chế chính trị nào vấn đề nhân quyền cũng đều có mặt tiến bộ và mặt hạn chế. Có những nước cao giọng nói về nhân quyền, nhưng trên thực tế cũng còn những bất cập, nhân quyền ở nước họ chưa thực sự bảo đảm đầy đủ. Thậm chí họ nói một đường làm một nẻo. Ngay cả quyền sống cũng luôn bị đe doạ nghiêm trọng.

Ở nước ta, dưới sự lảnh đạo của một chính đảng cách mạng chân chính, như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: Đảng ta “là đạo đức, là văn minh”. Lời tuyên ngôn này khẳng định sứ mệnh và sự cống hiến vĩ đại của Đảng đối với Tổ quốc và dân tộc. Vì vậy, với đường lối độc lập tự chủ của mình, Đảng ta luôn coi trọng vấn đề quyền con người. Bản Hiến pháp của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã chứng minh quan điểm nhất quán của Đảng. Tuy nhiên, nhìn nhận đúng thực trạng và đối chiếu với Hiến pháp cũng còn những vấn đề cần được làm rõ, để có những bước đi, hoá giải những bất cập nhằm triệt để tôn trọng, bảo vệ và phát huy quyền con người cùng sự phát triển bền vững của đất nước.

pho-chu-tich-quoc-hoi-nguyen-khac-dinh-chu-tri-lam-viec-voi-thuong-truc-uy-ban-phap-luat-1411
 

Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định chủ trì làm việc với Thường trực Ủy ban Pháp luật của Quốc hội khóa XV

Tư duy đổi mới trong hoạt động lập pháp trước hết và trên hết phải là vấn đề quyền con người. Trung ương Đảng đã yêu cầu: "Đổi mới tư duy lập pháp từ tư duy quản lý sang tư duy phục vụ, từ bị động sang chủ động, triệt tiêu cơ chế xin cho". Điều này cho thấy sự nhấn mạnh vào việc đề cao quyền con người. Mọi người trong xã hội đều có quyền và nghĩa vụ như nhau, vị trí công việc là do sự phân công lao động xã hội. Quan chức cũng là một nghề lao động, làm đúng bổn phận là phục vụ người dân, doanh nghiệp để họ tạo ra của cải vật chất, đóng thuế cho nhà nước để trả lương cho chính quan chức. Thế nhưng, vì sao một bộ phận quan chức lại lạm dụng quyền lực nhà nước để mưu cầu lợi ích cá nhân, đi ngược lại lợi ích chung? Vòng xoáy của danh và lợi đã khiến họ quên đi trách nhiệm chính trị, trở thành những kẻ quan liêu, tham nhũng. Vậy, quy phạm và cơ chế pháp luật nào để kiểm soát quyền lực của quan chức? Đây không phải là vấn đề mới, nhưng cái mới nằm ở chỗ nó là một phần trong tổng thể cải cách thể chế pháp luật. Kiểm soát được quyền lực và trách nhiệm của quan chức, mới bảo vệ và phát huy được quyền con người trong quá trình thực thi pháp luật. Người dân, doanh nhân đến cửa quan không phải để xin xỏ, mà là để được quan chức phục vụ, hỗ trợ, giúp đỡ. Khi quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền tự do ngôn luận, tự do dân chủ... của mọi thành phần xã hội được các cơ quan nhà nước tôn trọng và bảo vệ, sự đồng thuận trong xã hội sẽ thuận chiều theo lý tưởng, mục tiêu của Đảng. Ngược lại, trong một xã hội mà nhiều người yếu thế, người nghèo phải chấp nhận bất bình đẳng hoặc chịu đựng oan trái do những người có quyền, có tiền gây ra, thì vấn đề quyền con người chưa thể nói là được đảm bảo đầy đủ.

Có một nhà triết học từng nói: "Khi Chính phủ sợ người dân, khi đó có tự do; khi người dân sợ Chính phủ, khi đó có bạo quyền". Hoạt động của các cơ quan công quyền cần được người dân giám sát, kiểm soát bằng những quy phạm pháp luật cụ thể. Điều này sẽ giúp cơ quan công quyền thi hành đúng pháp luật, đề cao tính dân chủ, minh bạch, và người dân cùng doanh nghiệp được phục vụ tận tình. Đảm bảo quyền con người thực chất là chống lại áp bức, bất công, đảm bảo bình đẳng giữa người với người. Việc đảm bảo này trước hết là sự đảm bảo bằng pháp luật và đồng hành với pháp luật là đạo đức. Con người làm hại nhau, quốc gia, dân tộc làm hại nhau do xung đột lợi ích. Tuy nhiên, sống trong một quốc gia mà pháp luật triệt để tôn trọng, bảo vệ và phát huy quyền con người, quốc gia đó sẽ có tự do và hạnh phúc thực sự. Ngược lại khi quyền con người không được bảo vệ, các yếu tố gây bất ổn xã hội luôn hiện hữu. Hiến pháp và nhiều Bộ luật quan trọng của nước ta đều thể hiện rõ sự tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Tuy nhiên, trên thực tế, quyền con người nhiều lúc, nhiều nơi chưa được bảo vệ đúng quy định của Hiến pháp và pháp luật. Vấn đề này có thể do các quy định dưới luật chưa đồng bộ, việc thực thi pháp luật chưa nghiêm, do lợi ích nhóm, cơ chế "xin cho", hoặc sự yếu kém về đạo đức công vụ của cán bộ công chức. Đôi khi, chính những hành vi được gọi là "tuân thủ pháp luật" lại gây ra sự xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Ví dụ điển hình là nhiều vụ cưỡng chế thu hồi đất phục vụ dự án. Mặc dù về thủ tục pháp lý, hồ sơ cưỡng chế có vẻ "không sai" do được hợp thức hóa theo ý chí của nhóm lợi ích, nhưng bản chất sự bất bình, bức xúc và khiếu kiện của người dân là đúng.  

Trong sự nghiệp đổi mới, vấn đề quyền con người được Đảng ta rất quan tâm thể chế hóa bằng Hiến pháp, và có nhiều nghị quyết nhằm bảo vệ và phát huy quyền con người. Việc triển khai thực hiện Hiến pháp và nghị quyết đã đạt được nhiều tiến bộ, nhân dân ta được hưởng cuộc sống trong hòa bình, các quyền cơ bản như quyền học tập, lao động, cư trú, đi lại, khám chữa bệnh, tự do tín ngưỡng… được bảo đảm. Tuy nhiên, từ thực tế nêu trên, bảo vệ quyền con người cần đổi mới tư duy lập pháp và hành pháp.

Vậy, tư duy mới trong xây dựng và thi hành pháp luật để đảm bảo quyền con người trên thực tế là gì? TRƯỚC HẾT PHẢI TUÂN THỦ HIẾN PHÁP Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Chương II, với 36 điều (từ Điều 14 đến Điều 49), quy định về quyền con người. Đây là Chương rất quan trọng, là cơ sở để xây dựng pháp luật. Các quy phạm pháp luật trực tiếp hay gián tiếp làm phương hại đến quyền con người theo quy định của Hiến pháp đều phải được loại bỏ hoặc sửa đổi phù hợp.  

 Nhiều nội dung phát ngôn tại các sự kiện đông người, đăng tải trên báo chí và mạng xã hội chưa phản ánh đầy đủ về nhận thức, tư duy, kiến thức và trách nhiệm của người Việt Nam trong xã hội hiện đại. Tính dân chủ, giám sát và phản biện xã hội thông qua tự do ngôn luận, tự do báo chí chưa được phát huy mạnh mẽ, đặc biệt hạn chế trong việc nêu chính kiến, góc nhìn đa chiều, lên án, chỉ trích cơ quan công quyền, quan chức vô cảm, thiếu trách nhiệm. Một bộ phận người dân còn định kiến với Đảng, với chế độ, nhận diện các sự kiện, nhân vật thiếu khách quan, hoặc thờ ơ với thời cuộc, hoặc ủng hộ những thế lực tuyên truyền xuyên tạc, chống phá Đảng và Nhà nước. Một bộ phận khác lại không dám bộc bạch suy nghĩ của mình vì sợ sai hoặc sợ bị quy chụp.

Trên diễn đàn báo chí, việc tôn vinh các giá trị cũng như thông tin về thời cuộc còn theo xu hướng "thương mại hóa" nên bức tranh về hiện thực khách quan của xã hội đương thời chưa được phản ánh khách quan. Trong khi đó, thông tin trên mạng xã hội phần lớn là tin giả, tin độc hại, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống cộng đồng, bất lợi cho quá trình xây dựng đất nước. Vấn đề đặt ra là pháp luật cần quy định như thế nào để quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí được đảm bảo, khơi dậy tình cảm và trách nhiệm của mọi người, phát huy tinh thần yêu nước tham gia sự nghiệp cách mạng của Đảng. Đặc biệt là khuyến khích các thành phần xã hội phát ngôn nhằm mục đích giám sát và kiểm soát quyền lực, hạn chế tối đa những sai phạm gây ra nhiều hệ lụy xấu cho xã hội. Một giải pháp thiết thực để phát huy quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí theo quy định của Hiến pháp là Việt Nam cần có một mạng xã hội định danh. Mạng xã hội này sẽ là địa chỉ tin cậy của cộng đồng, nơi gần như không có tin giả, tin xấu độc. Người đưa tin sẽ có trách nhiệm với cộng đồng, xã hội, đảm bảo thông tin chân thật vì nguồn tin được xác định rõ ràng, không giống các mạng xã hội khác với tài khoản ảo tràn lan tin giả. Mạng xã hội định danh này sẽ tự động tích hợp các nguồn tin từ báo chí một cách kịp thời, giúp báo chí lan tỏa thông tin rộng và nhanh nhất. Quan điểm cho rằng báo chí cạnh tranh với mạng xã hội là chưa đúng. Báo chí cần sử dụng mạng xã hội một cách thông minh để thông tin tiếp cận công chúng nhiều hơn, nhanh hơn. Ngay cả việc trưng cầu ý dân, hoặc tổ chức để nhân dân góp ý vào các dự án luật, khi có mạng xã hội định danh và sử dụng nó sẽ có hiệu quả hơn nhiều so với trước. Nội dung dự án luật được đến với công dân nhanh hơn, rộng hơn, việc lấy ý kiến mình bạch hơn, đầy đủ hơn, loại bỏ được dân chủ hình thức. Khi có một mạng xã hội định danh ngày càng phát triển về lượng dữ liệu cũng như người dùng, nó sẽ tạo ra kho tài nguyên số sạch phục vụ cộng đồng trong học tập, lao động, sinh hoạt. Khi có những sự kiện với nhiều thông tin và bình luận sai lệch, xuyên tạc, mạng xã hội định danh này sẽ là địa chỉ giúp công chúng nắm rõ sự thật, bản chất sự kiện. Từ đó, việc đấu tranh chống luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng cũng sẽ thuận lợi hơn.

  Công dân được quyền làm những gì mà pháp luật không cấm Hiến pháp quy định: "Mọi người họ có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm." Không chỉ là quyền kinh doanh, nguyên tắc trong tư duy cải cách thể chế pháp luật của Đảng là công dân có quyền làm những gì mà pháp luật không cấm, không bị hạn chế. Thiết nghĩ, nội dung cấm hay hạn chế quyền công dân, quyền con người nên có một Bộ luật riêng, không nên để rải rác trong nhiều Bộ luật. Điều này giúp người dân, doanh nghiệp và cơ quan chức năng dễ tiếp cận, đồng thời dễ phát hiện khi có hành vi xâm hại quyền con người. Hoặc có thể xuất bản bộ sách giải thích, hướng dẫn rõ về những gì công dân được phép làm mà pháp luật không cấm. Công dân làm việc gì không bị cấm thì không cần phải xin phép. Tuy nhiên, nếu trong quá trình làm những việc pháp luật không cấm mà lại có hành vi vi phạm pháp luật, thì công dân vẫn sẽ bị phát hiện và xử lý theo pháp luật. Nguyên tắc "công dân có quyền làm những việc mà pháp luật không cấm" cần được quán triệt trong quá trình cải cách, hoàn thiện thể chế pháp luật. Điều này sẽ giúp lược bỏ, tối giản nhiều nội dung rườm rà, trùng lặp, chồng chéo trong "rừng luật" hiện hành của nước ta.

Tôn trọng, bảo vệ và phát huy quyền con người vừa là mục đích, vừa là động lực phát triển. Một quốc gia dù GDP có lớn đến mấy mà quyền con người không được đảm bảo thì mục tiêu xã hội công bằng, dân chủ, văn minh chưa thể trở thành hiện thực. Quyền con người chính là yếu tố nền tảng để tiến hành xây dựng và thi hành pháp luật. Một nền pháp luật có tính chuẩn mực cao, phù hợp với nền văn minh của nhân loại, khơi thông mọi nguồn lực, mọi sức sáng tạo vào mục tiêu chung, chính là nền pháp luật được xây dựng với tư tưởng triệt để tôn trọng, bảo vệ và phát huy quyền con người.

(Còn nữa)

NGUYỄN HOÀ VĂN

Đọc tiếp

Mới nhất

ĐỘT PHÁ CỦA ĐỘT PHÁ TỪ YÊU CẦU THỰC TIỄN (Tiếp theo kỳ trước) Bài 2: QUYỀN CON NGƯỜI - NỀN TẢNG XÂY DỰNG VÀ THI HÀNH PHÁP LUẬT