Công tác xây dựng và thi hành pháp luật là "đột phá của đột phá" trong hoàn thiện thể chế phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Khi tạo được đột phá trong xây dựng và thực thi pháp luật, nhiều đột phá khác dưới sự lãnh đạo của Đảng cũng sẽ được chuyển động tích cực, giải quyết các vấn đề một cách căn bản, xử lý được các "điểm nghẽn", loại bỏ được lực cản, rào cản, tạo được sự phát triển bền vững.
Bài 1 : ĐỘT PHÁ TỪ NGHỊ QUYẾT 66/NQ-TW
Quản lý xã hội bằng pháp luật là quy luật tất yếu đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững của mọi quốc gia, vùng lãnh thổ. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành nhiều nghị quyết quan trọng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Ngay sau khi giành chính quyền và thiết lập Nhà nước mới, Đảng luôn đề cao việc thể chế hóa đường lối, chính sách của mình thành pháp luật. Pháp luật Nhà nước không chỉ thể hiện nội dung lãnh đạo của Đảng mà còn phản ánh ý chí của toàn dân, là nơi hội tụ "ý Đảng, lòng dân" trên con đường thực hiện cương lĩnh. Đồng thời, pháp luật là quy luật tất yếu để tôn trọng, bảo vệ và phát huy quyền con người, quyền công dân, quyền làm chủ của Nhân dân. Kể từ khi khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng đã đặc biệt chú trọng công tác lập pháp và thực thi pháp luật. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 2, khóa VII (11/1991), Đảng đã đưa ra khái niệm và nội dung xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Các bản Hiến pháp sửa đổi (1992, 2013) đã khẳng định: "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân." Tuy nhiên, nhìn lại chặng đường xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, chúng ta dễ dàng nhận thấy, bên cạnh những tác động tích cực trong quản lý xã hội, Pháp luật Việt Nam không chỉ còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển mà còn có nhiều quy phạm đang kìm hãm sự phát triển, chưa đảm bảo thực thi dân chủ, chưa triệt để bảo vệ quyền con người, cũng như chưa thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Thậm chí, một số quy định còn tạo ra những "trói buộc", khiến chúng ta bỏ lỡ nhiều cơ hội giải phóng sức sản xuất. Thể chế pháp luật bất cập, là nguyên nhân chính của nhiều vấn nạn ngược chiều với mục tiêu xây dựng đất nước mà đến nay trong kỷ nguyên vươn mình của toàn dân tộc, chúng ta đang phải gánh nặng những hệ luỵ phức tạp tích tụ từ nhiều thập kỷ qua. Giá như bộ máy nhà nước tinh gọn, ngày càng không phình to ra, thì giờ đây không phải chi trả một lượng tiền khổng lồ cho người nghỉ hưu. Giá như chúng ta có luật đất đai chuẩn ngay từ đầu, thì nguồn lực đất đai do nhà nước nắm để đầu tư phát triển và bảo đảm an sinh xã hội không có những khó khăn phức tạp và xã hội không phân hoá giàu nghèo như hiện nay. Giá như chúng ta đề cao và biết cách thu hút trọng dụng nhân tài, tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, thì sự phát triển của đất nước đã có một bước tiến dài…
Các đại biểu biểu quyết thông qua Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Chính vì thế, dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm, Trung ương Đảng đã có những chủ trương và bước đi táo bạo, quyết liệt, tạo ra những đột phá chiến lược chưa từng có trong lịch sử Đảng. Nghị quyết 66/NQ-TW của Bộ Chính trị về cuộc cách mạng cải cách thể chế pháp luật đã nêu rất đầy đủ, rõ ràng những tư duy mới, nhiều quan điểm chỉ đạo và giải pháp chiến lược quan trọng. Nghị quyết 66 vừa đáp ứng nhiệm vụ cấp bách trước mắt là xử lý các "điểm nghẽn", phá bỏ các rào cản, vừa hướng tới nhiệm vụ lâu dài là xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền đúng nghĩa.
Nghị quyết 66/NQ-TW của Bộ Chính trị chứa đựng nhiều nội dung thể hiện tư duy mới trong xây dựng và thực thi pháp luật. Trong đó, có những quan điểm chỉ đạo và nhiệm vụ, giải pháp cần được quán triệt sâu sắc.
Trước hết, Nghị quyết nhấn mạnh việc xây dựng và thi hành pháp luật phải tăng cường kiểm soát quyền lực; phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ; phòng ngừa, ngăn chặn mọi biểu hiện trục lợi. Đồng thời, phát huy vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, sự tham gia rộng rãi, thực chất của người dân, tổ chức, doanh nghiệp. Ở đây, cần đặc biệt lưu ý đến hai từ "thực chất". Hoạt động giám sát, phản biện xã hội và sự tham gia của các thành phần nói trên phải thực chất. Chúng ta đã trải qua một thời kỳ nói và làm không thống nhất, dân chủ hình thức, dẫn đến việc không thể kiểm soát được quyền lực, và đang phải trả giá cho nhiều hệ lụy từ việc hợp thức hóa dân chủ và quyền lực không chính danh. Câu chuyện thực chất trong hoạt động lập pháp, hành pháp cần được toàn dân, mọi cấp, mọi ngành nhận thức và hành động ở mọi lúc, mọi nơi. Chúng ta phải kiên quyết đoạn tuyệt với sự áp đặt, thông tin một chiều, giải thích theo ý chí của nhóm lợi ích. Trong bối cảnh hiện tại, với việc đổi mới tư duy xây dựng và thi hành pháp luật theo tinh thần Nghị quyết 66 của Bộ Chính trị, Nhân dân tin tưởng rằng thành trì của nhóm lợi ích sẽ bị công phá.
Một nội dung quan trọng khác trong Nghị quyết 66 cho chúng ta thấy tầm quan trọng của nhiệm vụ cải cách thể chế pháp luật, đó là: Công tác xây dựng và thi hành pháp luật là "đột phá của đột phá" trong hoàn thiện thể chế phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Cần hiểu rõ cụm từ "đột phá của đột phá" ở đây. Điều này có nghĩa là, những đột phá chiến lược, quan trọng khác như tổ chức lại bộ máy, thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ, chuyển đổi số, phát triển kinh tế tư nhân và nhiều khâu đột phá khác, sự thành công của chúng đều phụ thuộc vào hiệu quả xây dựng và thi hành pháp luật. Khi tạo được đột phá trong xây dựng và thực thi pháp luật, nhiều đột phá khác dưới sự lãnh đạo của Đảng cũng sẽ được chuyển động tích cực, giải quyết các vấn đề một cách căn bản, xử lý được các "điểm nghẽn", loại bỏ được lực cản, rào cản, tạo được sự phát triển bền vững. Ví dụ: Việc sửa đổi Luật Bầu cử Quốc hội và Hội đồng Nhân dân theo hướng trọng dụng người tài, không phụ thuộc cơ cấu, tăng tỷ lệ lớn đại biểu chuyên trách. Các thủ tục giới thiệu ứng cử viên, hiệp thương danh sách ứng cử, phân chia ứng cử viên theo khu vực nặng tính hình thức, không thực chất, tạo ra rào cản trong thu hút nhân tài sẽ được tháo bỏ. Hoặc như việc đảng viên ứng cử đại biểu Quốc hội chỉ cần báo cáo với tổ chức Đảng, Cấp ủy phải tôn trọng quyền ứng cử của công dân là đảng viên. Số lượng ứng cử viên có thể nhiều, cần có quy định sàng lọc, hoặc các ứng cử viên được tranh cử trước khi đưa vào danh sách bầu cử chính thức. Khi tiến hành bầu cử, cần tạo mọi điều kiện và sử dụng công nghệ để công dân thực hiện quyền bầu cử một cách minh bạch theo ý chí của mình, không ai có quyền chi phối bầu cử. Làm được như thế sẽ có một đội ngũ những người ưu tú làm đại biểu Nhân dân – điều cực kỳ quan trọng để hỗ trợ bộ máy Nhà nước hoạt động minh bạch, hiệu năng, hiệu quả cao. Hoặc ví dụ trong lĩnh vực đất đai: Chúng ta đang phải trả giá cho những lãng phí, tham nhũng và bất cập do sai lầm trong quản lý đất đai. Đất đai là nguồn lực quan trọng, to lớn của nhà nước cho đầu tư phát triển và an sinh xã hội. Tuy nhiên, những bất cập trong quản lý đất đai suốt nhiều thập kỷ qua là nguyên nhân chính gây phân hóa giàu nghèo, lợi ích nhóm, tạo ra bất công xã hội và nhiều hệ lụy phức tạp khác. Nguồn lực đất đai để phục vụ phát triển bị phân tán. Nhiều nơi Nhà nước, doanh nghiệp, người dân cần đất để phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội thì không có hoặc thiếu, trong khi nhiều tổ chức, cá nhân chiếm giữ đất, để đất không hoặc sử dụng vào những mục đích chỉ tạo ra lợi ích riêng. Việc sửa đổi Luật Đất đai và xử lý các tồn đọng, lãng phí về đất đai sẽ tạo hiệu ứng tích cực trong phát triển kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân, trong đảm bảo thu ngân sách, quản lý tài sản công cũng như thuận lợi tạo lập các cơ sở khoa học, giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, sức khỏe cộng đồng… Và rất nhiều lĩnh vực khác, việc xây dựng luật và thực thi pháp luật nghiêm minh sẽ là "đột phá của đột phá".
Khát vọng vươn mình của dân tộc trong kỷ nguyên mới sẽ đến đích nhanh hơn nhờ vào việc xây dựng và thi hành pháp luật theo tư duy mới của Đảng.
Nghiên cứu các nhiệm vụ, giải pháp nêu trong Nghị quyết 66 của Bộ Chính trị, chúng ta nhận thấy nhiều nội dung rất mới, trong đó có một số vấn đề cần được quán triệt sâu sắc.
Nghị quyết yêu cầu đổi mới tư duy, định hướng xây dựng pháp luật theo hướng vừa đảm bảo yêu cầu quản lý nhà nước, vừa khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực phát triển. Vấn đề cốt lõi ở đây là chuyển tư duy từ quản lý sang tư duy phục vụ. Yêu cầu quản lý vẫn được đảm bảo, nhưng quản lý nhằm mục đích làm cho "chuyến tàu nhẹ cánh để bay" chứ không phải quản lý vẫn còn những trói buộc về pháp lý. Cùng với quản lý, pháp luật phải đảm bảo sự phục vụ để kiến tạo phát triển. Các quy định của luật phải mang tính ổn định, đơn giản, dễ thực hiện, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm. Người dân, doanh nghiệp phải được phục vụ, được hỗ trợ từ những quy định của pháp luật và việc thi hành những quy định đó.
Nghị quyết 66, không chỉ là đột phá trong hoạt động lập pháp mà phải tạo được đột phá trong thi hành pháp luật. Có như vậy mới đảm bảo thực hiện được theo định hướng nói trên, và thể chế pháp luật mới trở thành lợi thế cạnh tranh như Bộ Chính trị yêu cầu. Chúng ta phải dứt khoát từ bỏ tư duy "không quản được thì cấm". Phải thực hiện nguyên tắc: người dân, doanh nghiệp được phép làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm. Thiết nghĩ, cần nghiên cứu ban hành một Bộ luật riêng về những điều cấm cá nhân, tổ chức không được làm. Nếu nội dung này nằm rải rác trong nhiều văn bản pháp luật sẽ rất khó để người dân nắm bắt.
Vấn đề quyền con người cũng được đặt ra đúng mức trong Nghị quyết 66: phát huy dân chủ, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân; đảm bảo sự cân đối, hợp lý giữa mức độ hạn chế quyền với lợi ích chính đáng đạt được.
Lâu nay, do pháp luật có nhiều "lỗ hổng", chồng chéo, trùng lặp nên quan chức dễ lợi dụng "sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi". Vì vậy, lần này việc xây dựng pháp luật phải phân cấp, phân quyền triệt để, tự quyết và tự chịu trách nhiệm.
Một trong những vấn đề cốt lõi của cải cách thể chế pháp luật là xóa bỏ cơ chế "xin cho". Khi nào còn cơ chế "xin cho" thì còn mầm mống nảy sinh tham nhũng và bất công xã hội. Hóa giải được cơ chế này, cuộc cách mạng về thể chế cơ bản đã nắm chắc thành công. Tuy nhiên, để xóa bỏ được cơ chế "xin cho" là một bài toán khó và chưa có lời giải thỏa đáng. Với chủ trương và bước đi kiên quyết, táo bạo của Trung ương Đảng trong tiến hành cuộc cách mạng về thể chế cùng các cuộc cách mạng khác, Nhân dân ta đang rất phấn khởi, tin tưởng rằng Đảng ta sẽ biến việc không thể thành có thể, việc khó thành dễ.
Vậy, bằng cách nào để xóa bỏ cơ chế "xin cho"? Thay thế cơ chế "xin cho" là cơ chế gì? Thiết nghĩ, Trung ương Đảng cần tổ chức công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề này, để công tác xây dựng pháp luật có thêm căn cứ nhằm hạn chế và triệt tiêu cơ chế "xin cho". Trước mắt, cần bãi bỏ tất cả các loại giấy phép không cần thiết, những ngành nghề không bỏ được việc cấp phép thì thủ tục cần đơn giản trong thời gian ngắn. Đồng thời làm rõ những gì người dân và doanh nghiệp được làm mà pháp luật không cấm. Đây là bước đi ban đầu tạo nhiều cảm xúc trong xã hội về triệt tiêu cơ chế "xin cho".
Mặc dù hiểu rõ vị trí quan trọng của xây dựng và thi hành pháp luật là "đột phá của đột phá", nhưng pháp luật phải được xây dựng trên nền tảng đạo đức. Pháp luật thiếu mối quan hệ biện chứng với đạo đức thì pháp luật trở thành vô nghĩa. Do đó, để đảm bảo sự thành công của nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nghị quyết 66 không quên nhấn mạnh vai trò của đạo đức. Đạo đức xã hội, đạo đức cách mạng, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, quy tắc ứng xử, sinh hoạt cộng đồng là những yếu tố không thể thiếu trong quá trình xây dựng và thi hành pháp luật.
(Còn nữa)