Logo-print CƠ QUAN CỦA TRUNG ƯƠNG HỘI - TIẾNG NÓI CỦA CỰU CHIẾN BINH VIỆT NAM

Khúc ‘thánh ca hoà bình’ ở nhà hát nhà binh New York

Bài 3: Người bên kia chiến tuyến nói gì?

Ghi chép của Đại Bàng 01/10/2025 - 15:08

Các cựu chiến binh Mỹ đã nói lên tiếng nói của lương tri, của sự thay đổi nhận thức sai lầm và mong mỏi thế hệ hôm nay không bao giờ lặp lại những sai lầm ấy.

1-1

Cựu binh Hoa Kỳ John Terzano đã có những chia sẻ đầy xúc động tại buổi gặp mặt.

Từ giận dữ, đau buồn đến trách nhiệm, lương tri

Những người lính Mỹ phải chống gậy, ngồi xe lăn vì bom đạn như hai ông trong câu chuyện mà Thiếu tướng Hoàng Kiền nhắc đến ở bài trước lại là những người tiên phong giúp Việt Nam khắc phục hậu quả bom mìn.

Ông John Terzano cùng với Thượng nghị sĩ John Kerry và Bobby Muller là những cựu chiến binh Hoa Kỳ trở lại Việt Nam sau chiến tranh. Ông đồng sáng lập tổ chức “Cựu chiến binh Hoa Kỳ tham chiến tại Việt Nam (VVA-1978) và Quỹ Cựu chiến binh Hoa Kỳ tại Việt Nam (VVAF), nằm trong trong nỗ lực hòa giải, xóa bỏ cấm vận và bình thường hóa quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ.

Tại buổi gặp mặt, ông John Terzano kể: Ông là một trong những cựu chiến binh Hoa Kỳ đầu tiên trở lại Việt Nam sau chiến tranh, đồng sáng lập tổ chức cựu chiến binh Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam. Ông xúc động nói:Thưa quý vị, hôm nay tôi có mặt ở đây với tư cách không chỉ là một cá nhân, mà còn là đại diện cho đất nước tôi. Lần cuối cùng tôi rời Việt Nam là vào năm 1972. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình lại có thể quay trở lại nhiều lần như vậy. Tôi thật sự hạnh phúc.

Tôi may mắn được tham gia trong phái đoàn đầu tiên của các cựu chiến binh tớiViệt Nam năm 1981. Người bạn thân của tôi đã làm việc tại Washington DC, nỗ lực vận động chính phủ chúng tôi xây dựng những chương trình cần thiết. Một trong số đó là hỗ trợ Chính phủ Việt Nam cung cấp và tiếp nhận thông tin. Khi đó, chúng tôi không có nhiều kết quả ngay, nhưng đã đến Việt Nam đúng vào tuần trước lễ Giáng sinh.

Tôi còn nhớ thời điểm đó, Bộ trưởng Ngoại giao của Việt Nam đã tiếp chúng tôi. Giáng sinh năm 1972 cũng là khi Mỹ tăng cường ném bom, được gọi là “Cuộc tập kích chiến lược bằng B-52”. Vậy mà khi chúng tôi đi trên đường phố, người dân vẫn tiến lại gần, trò chuyện và tỏ ra hết sức thân thiện. Chúng tôi tự hỏi: Làm sao họ có thể chào đón nồng hậu như vậy, giữa khi đất nước vừa trải qua hủy diệt? Chính từ đó, chúng tôi nhận ra rằng còn rất nhiều việc phải làm để hàn gắn vết thương chiến tranh. Và quan trọng hơn, chúng tôi phải bắt đầu tiến trình hòa giải dù lúc bấy giờ, đó không phải là một quan điểm phổ biến ở Hoa Kỳ.

Thưa quý vị, việc quan tâm đến những người khuyết tật, tôi nghĩ, chính là minh chứng cho tinh thần bù đắp và cho mối quan hệ đối tác chiến lược. Đây là vấn đề đã được hỗ trợ từ nhiều năm trước, và giờ đây tôi càng hiểu rõ hơn ý nghĩa của việc cùng nhau chia sẻ và chung tay hành động.

Trong hơn 40 năm qua, đã có sự hợp tác chặt chẽ giữa các nhà khoa học và các tổ chức để cùng nhau giải quyết những vấn đề hậu quả chiến tranh. Quan hệ đối tác này không chỉ dừng lại ở việc khắc phục hậu quả, mà còn mở ra một kỷ nguyên hợp tác mới, dựa trên hòa giải, công lý, hòa bình và tình hữu nghị. Bản thân tôi từng mang trong mình sự giận dữ và đau buồn, nhưng hôm nay, sự hiện diện của chúng ta tại đây cho thấy chúng ta vẫn đang cùng nhau nỗ lực giải quyết những di sản của chiến tranh.

Điều quan trọng là các thế hệ hôm nay và mai sau phải tiếp tục công việc này. Bởi lẽ, những gì chúng ta làm không chỉ có ý nghĩa với quá khứ, mà còn thực sự quan trọng đối với những con người đang chịu ảnh hưởng trực tiếp từ chiến tranh”.

Cựu chiến binh Việt Nam là tấm gương

Ông Bob Golob, con trai của một phi công lái máy bay F4 đã bị bắn rơi và đã có gần 5 năm ở trong Hỏa Lò chia sẻ câu chuyện của bố ông và kể: “Lần đầu tiên tôi đặt chân đến Việt Nam cách đây hơn 20 năm, khởi nguồn từ mong muốn tìm hiểu về hành trình hàn gắn của cha tôi, một phi công F4 từng bị bắn rơi và trải qua gần 5 năm trong trại giam Hỏa Lò. Tôi muốn hiểu điều gì đã thôi thúc ông quay trở lại Việt Nam, gặp gỡ con người nơi đây, đắm mình trong văn hóa và chia sẻ những trải nghiệm của mình. Đặc biệt, tôi đã có cơ hội tham gia một bộ phim tài liệu, qua đó càng thấm thía hơn những giá trị mà ông để lại.

Mỗi chuyến đi, mỗi lần trở lại Việt Nam đều mang đến cho tôi những khám phá mới. Và trước khi kịp nhận ra, hành trình ấy đã đưa tôi trở lại đất nước này hơn 50 lần.

Câu chuyện của cha tôi chắc chắn là một hành trình rất riêng. Với tư cách là một tù binh chiến tranh, ông đã trải qua phần lớn những năm tháng khốc liệt ấy phía sau song sắt. Từ ông, tôi học được rằng: người dân Việt Nam đã phải chịu đựng chiến tranh như cả một dân tộc, với những mất mát, những hy sinh, và nỗi đau kéo dài qua nhiều thế hệ.

Điều khiến tôi xúc động nhất chính là chứng kiến cách các cựu chiến binh Việt Nam đã dũng cảm hàn gắn chính mình, và hơn thế, họ còn mở rộng vòng tay để hòa giải với quá khứ. Sự kiên cường ấy trở thành nguồn cảm hứng lớn lao cho hành trình hòa giải của bản thân tôi.

Khi nhìn thấy những người con, người cháu của các cựu chiến binh Việt Nam có mặt tại đây, nhiều người trong số đó tôi may mắn được quen biết, tôi muốn gửi đến các bạn lời chào trân trọng. Tôi hy vọng rằng, cùng nhau, chúng ta có thể đảm bảo để con cái của tôi và con cái của các bạn lớn lên như những người bạn, để tiếp tục xây dựng hòa bình và tình hữu nghị lâu dài giữa nhân dân hai nước”.

Ông Richard McKenna, người đóng góp rất lớn trong việc hàn gắn hậu quả chiến tranh tìm hài cốt liệt sĩ phát biểu tâm sự lý do ông ở đây là vì người anh họ của tôi đã bị bắn rơi trên một chiếc trực thăng ở Thung lũng A Sầu vào tháng 2/1969. Ông đã tìm kiếm và chưa thể tìm thấy anh. “Trong vòng một tháng sau khi trở về từ chuyến đi năm 2017, tôi cũng đã tham gia chuyến đi của Bob Golob đến Việt Nam vào đầu năm và phát hiện 137 bộ hài cốt tại một khu vực diễn ra một trận đánh lớn trong Chiến tranh Việt Nam. Chúng tôi đã rất nỗ lực cung cấp bản đồ và hình ảnh về các địa điểm chôn cất của hàng nghìn bộ đội Việt Nam. Một trong những thành công của chúng tôi là việc phát hiện ra một ngôi mộ tập thể từ trận chiến năm 1966 tên là Long Tân” - ông kể.

Trong hai năm qua, nhóm của ông hỗ trợ hơn mười nghìn bức ảnh và tài liệu từ những năm chiến tranh. Ông hi vọng rằng trong tương lai, việc sử dụng công nghệ quét laser (LiDAR) và radar xuyên đất (GPR) tại các địa điểm chôn cất sẽ hỗ trợ tốt hơn việc tìm kiếm hài cốt.

Nhân dân Việt Nam rộng lượng mở cánh cửa

Tương tự, ông Kelly McKeague - Giám đốc Cơ quan tìm kiếm tù binh và người mất tích thuộc Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ chia sẻ, đến nay, có tới 1.199 gia đình tại cả Hoa Kỳ và Việt Nam cùng chung trong chương trình này. Quay ngược dòng thời gian, ông thẳng thắn nhìn nhận: Nếu không có lòng nhân ái, sự vị tha và rộng lượng của Chính phủ cũng như nhân dân Việt Nam, chúng ta đã không thể có được ngày hôm nay.

“10 năm trước, chúng ta kỷ niệm chuyến hợp tác tìm kiếm và hồi hương chung đầu tiên giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, diễn ra vào tháng 4 năm 1985, trong bối cảnh cấm vận kinh tế, rào cản thương mại và sự ngờ vực sâu sắc. Thế nhưng, chính nhân dân Việt Nam, với sự thấu hiểu và rộng lượng, đã mở ra cánh cửa cho sự hợp tác ấy.

Và hôm nay, sau 40 năm, nhờ vào sự hợp tác và đồng hành cùng Việt Nam, đã có 756 gia đình người Mỹ nhận được câu trả lời sau bao năm chờ đợi. Từ sau chiến tranh, người Mỹ luôn tìm kiếm và hồi hương hài cốt quân nhân, ngay trong chiến tranh cũng như sau khi chiến tranh kết thúc. Thay mặt Chính phủ Hoa Kỳ và thay mặt các gia đình mà chúng tôi đại diện, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành. Hiện nay, vẫn còn 117 gia đình người Mỹ đang chờ đợi câu trả lời và chúng tôi tin rằng họ sẽ sớm nhận được, nhờ sự hợp tác mạnh mẽ từ phía Việt Nam. Ngay cả trong giai đoạn COVID-19, khi các đội Mỹ buộc phải quay về nước, chính Việt Nam đã tiếp tục công việc ấy, cử 30 đội điều tra và tìm kiếm, hoàn toàn không có sự tham gia của người Mỹ. Từ những chuyến đi đó, 16 quân nhân Mỹ đã được tìm thấy và trở về.

Thưa quý vị, đây chính là sức mạnh của sự hợp tác, của lòng vị tha và của hòa bình. Và đó cũng là lý do hôm nay chúng ta đứng cạnh nhau, không còn là thù hằn, mà là những đối tác thực sự” - ông Kelly McKeague xúc động nói.

2

Ông Craig McNamara - con trai của cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert McNamara phát biểu qua video clip nói về sai lầm của thế hệ đi trước và mong mỏi thế hệ hôm nay gác lại quá khứ cùng nhau vun đắp tương lai, vì hợp tác, hòa bình và phát triển

Ông Craig McNamara, con trai cựu Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Robert McNamara không đến được nên đã gửi video ghi hình những điều tâm sự, chia sẻ. Ông nói: “Cha tôi ngồi ghế Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ suốt 8 năm. Từ chiếc ghế ấy, ông đã đưa ra những quyết định làm thay đổi mãi mãi ông, thay đổi tôi, thay đổi đất nước chúng ta, và thay đổi cả những nguyên tắc vốn có.

Trong nhiệm kỳ của mình, 618.000 binh sĩ Mỹ đã được đưa tới chiến trường. Sau đó, ông từ chức, hoặc buộc phải từ chức, nhưng chính dưới sự lãnh đạo của ông, cuộc chiến tranh Việt Nam đã được hoạch định. Tháng 5/1995, ông đã thừa nhận: “Chúng ta đã sai. Chúng ta đã sai lầm khủng khiếp. Và chúng ta nợ thế hệ tương lai một lời giải thích vì sao”.

Nhưng thưa cha, liệu cha có bao giờ hỏi mẹ, hay hỏi nhân dân Việt Nam rằng tại sao? Tại sao họ khao khát sự thống nhất cho đất nước mình?

Lần này, con sẽ đến Việt Nam không phải để nói, mà để lắng nghe. Để học cách khiêm nhường và cố gắng trả lời câu hỏi đó trong khả năng của mình”.

3

Các cựu chiến binh bày Hoa Kỳ tỏ kỳ vọng tinh thần hòa hiếu và bao dung sẽ lan tỏa sâu rộng trong Chính phủ và nhân dân hai nước, trên cơ sở tôn trọng, bình đẳng và hiểu biết lẫn nhau, để cùng gác lại quá khứ, hướng tới tương lai

Ông chia sẻ chuyện được VTV4 mời tham gia bộ phim tài liệu Cuộc đọ sức ý chí - The battles of will nhân kỷ niệm 50 năm ngày kết thúc Chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam. Khi làm phim, ông đã đi dọc đường mòn Hồ Chí Minh và hàng rào điện tử McNamara, gặp gỡ những người lính đáng kính từng chiến đấu ở cả hai phía của cuộc chiến. Trên hành trình ấy, ông đã gặp O Chẩm,  người được trao tặng 9 danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ vì sự dũng cảm của bà trong chiến tranh. “Bà và tôi đều sinh năm 1950, chỉ cách nhau một vài tháng. Hai bên chiến đấu anh dũng, chứng kiến hàng trăm người tử trận. Thế nhưng hôm nay, chúng ta lại trở thành anh em cùng nhau xây dựng hòa bình và hòa giải giữa hai dân tộc.Tôi muốn nhấn mạnh rằng, cuộc gặp gỡ này không chỉ nhằm tưởng nhớ lịch sử, mà còn để hàn gắn vết thương quá khứ, khơi dậy cảm hứng cho các thế hệ trẻ hai nước tiếp tục xây dựng tình hữu nghị bền chặt hơn” -Ông Craig McNamara tâm sự.

Đối với các cựu binh Mỹ, hành trình trở lại Việt Nam là trải nghiệm đầy cảm xúc, chuyển hóa theo thời gian từ giận dữ và đau buồn của chiến tranh thành hòa giải, hòa bình, công lý và tình hữu nghị. Những lời ấy khiến cả khán phòng im phăng phắc.

Khán phòng hòa bình và bài ca hy vọng

Park Avenue Armory, từng là “sở chỉ huy chiến tranh”, nay là “khán phòng hòa bình”. Những nốt nhạc “Imagine”, “Bài ca hy vọng”, những tiếng chào điều lệnh và những cái bắt tay đã tạo thành bản giao hưởng tha thứ. Khi những người lính tiên phong đã dám mở khóa ký ức, thì chẳng có lý do gì các chiến tuyến khác – kinh tế, thương mại, văn hóa, khoa học – lại chần chừ trước cơ hội viết tiếp những trang sử mới.

Hòa bình hôm nay là di sản của thế hệ trước, nhưng cũng là lời thách thức cho thế hệ sau: biết giữ gìn, biết trân trọng, biết vun đắp. Bởi như John Lennon đã hát nửa thế kỷ trước, và vang lên một lần nữa chiều thu New York: “I hope someday you’ll join us, and the world will be as one.”

Bài hát Imagine do John Lennon sáng tác năm 1971, trong giai đoạn chiến tranh Việt Nam leo thang, phong trào phản chiến bùng nổ ở Mỹ. Lennon viết bài hát tại nhà riêng ở Anh, thu âm tại New York và phát hành trong album cùng tên (Imagine, 1971). Ông từng nói: “Imagine là một lời cầu nguyện hiện đại, một bài thánh ca cho hòa bình”.

z7062916384602_13cf57201799940c5ee480817127f7ec

Chủ tịch nước Lương Cường và các đại biểu đã chứng kiến các cựu chiến binh hai nước trao trả kỷ vật cho gia đình các quân nhân Việt Nam và Hoa Kỳ

z7062914751663_d664fbaaf1854f69832b8b91f2a7c97e
z7062914737355_71a4f94aa56a76e466d66b60ae1ed446

Lời ca khuyến khích con người hình dung về một thế giới không có chiến tranh, không có biên giới, không còn chia rẽ bởi tôn giáo hay tài sản. Câu hát nổi tiếng: “I hope someday you’ll join us, and the world will be as one” (Tôi hy vọng một ngày nào đó bạn sẽ cùng chúng tôi, và thế giới sẽ trở thành một) trở thành khẩu hiệu của phong trào hòa bình thập niên 1970. Imagine nhanh chóng trở thành “bản nhạc phản chiến” tiêu biểu trong phong trào chống chiến tranh Việt Nam, được hát vang trong nhiều cuộc tuần hành và biểu tình tại Mỹ, Anh, Nhật, châu Âu. Năm 2004, tạp chí Rolling Stone xếp Imagine đứng thứ 3 trong danh sách “500 ca khúc vĩ đại nhất mọi thời đại” (Rolling Stone).Tại trụ sở Liên Hợp Quốc ở New York còn có bức tượng và tấm bia khắc lời bài hát.

Trong một khoảnh khắc đẹp, ca khúc “Imagine” lại vang lên ngay giữa khán phòng này. Có thể Lennon không hình dung nổi một ngày, chính giai điệu ấy sẽ làm nhịp cầu cho những người từng đứng ở hai bên chiến tuyến. Giữa tiếng nhạc, họ ôn chuyện, họ tôn trọng nhau, và họ cùng muốn xây đắp tương lai tốt đẹp cho con cháu, như lời ca từng được dệt nên từ nỗi đau về cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam…

Đọc tiếp

Mới nhất

Bài 3: Người bên kia chiến tuyến nói gì?