Trở về từ chiến trường với tỷ lệ thương tật 81%, cuộc sống tưởng như khép lại với người thương binh nặng Khổng Minh Quý. Nhưng với một tinh thần thép, một ý chí không khuất phục trước bất kỳ gian nan nào, anh đã “đứng dậy” làm giàu chính đáng, góp phần dựng xây quê hương, hỗ trợ đồng đội và tri ân những Anh hùng liệt sĩ hy sinh vì Tổ quốc.
Từ khát vọng thoát nghèo của người thương binh nặng...
Sinh ra, lớn lên trên vùng đất Yên Bái giàu truyền thống cách mạng, nơi mỗi tấc đất, ngọn cỏ đều thấm đẫm tinh thần yêu nước và hy sinh. Khi đất nước chìm trong khói lửa chiến tranh, chàng thanh niên Khổng Minh Quý đã tình nguyện lên đường nhập ngũ. Những năm tháng cùng đồng đội chiến đấu, bảo vệ biên giới Tổ quốc anh bị thương, với tỷ lệ thương tật 81%.
Trở về quê hương trong hoàn cảnh sức khỏe yếu, kinh tế gia đình khó khăn, anh đối mặt với nỗi ám ảnh lớn nhất - sự bất lực giữa đời thường. Nhưng anh không gục ngã. Anh tự nhủ: “Nếu sống, mà không làm được gì thì phụ đồng đội đã ngã xuống, phụ lòng nhân dân quê nhà”. Trong quá trình sinh hoạt tại Hội CCB địa phương, anh phát huy bản chất Bộ đội Cụ Hồ, tích cực tham gia các phong trào và quyết tâm làm kinh tế hộ gia đình để xoá đói giảm nghèo.
Giao lại công việc gia đình cho vợ, anh đến các tỉnh Hà Giang, Hà Tây, Vĩnh Phú, Thái Bình... tìm hiểu các mô hình kinh tế trang trại... Năm 1994, khi đã học hỏi, đúc rút được chút ít kinh nghiệm, anh quyết định chọn hướng chăn nuôi gia cầm và làm trang trại nhỏ. Sau 18 tháng nuôi gà, gia đình thu lãi 7,2 triệu đồng. Lợi nhuận tuy không lớn, nhưng là nguồn động lực giúp anh và gia đình vững tin tiếp tục mở rộng sản xuất. Năm 1996, vợ chồng anh đầu tư nuôi 500 con gà đẻ, gà giống, gà siêu thịt. Sau 1 năm, thu lãi hơn 10 triệu đồng.
Năm 1997, anh đăng ký theo học lớp trung cấp thú y tại Trường đại học nông nghiệp I - Hà Nội. Khi đã nắm chắc kỹ thuật chăn nuôi gà, anh tiếp tục mở rộng chăn nuôi, tăng số đầu gà lên tới 2.000 con, hằng tháng, bán ra thị trường trên 500kg gà thịt, trên 1.000 con gà giống, khoảng 4.000 quả trứng... Để khép kín quá trình sản xuất, anh đầu tư lắp đặt 2 máy ấp trứng, sản xuất con giống tại chỗ nhằm hạ giá thành sản phẩm và để nhân dân địa phương được hưởng giá dịch vụ thấp. Không chỉ lo làm giàu cho bản thân, anh còn chủ động giúp đỡ các CCB, nhân dân địa phương về con giống, thức ăn chăn nuôi, kỹ thuật, kinh nghiệm phát triển kinh tế hộ gia đình.
Cuối năm 2001, anh sang tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) tìm hiểu, học hỏi kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp. Trở về, anh chuyển hướng từ chăn nuôi sang trồng trọt. Thiếu vốn, anh đi vay, thiếu đất, anh đi thuê. Anh đã thuê được 22ha và đầu tư gần 500 triệu đồng mua cây giống về trồng. Khi đầu tư rồi, lại phải lo duy trì, lo vốn, đất canh tác, rồi hằng ngày phải đảm bảo đời sống từ 15 đến 20 lao động thường xuyên. Với phương châm “lấy ngắn, nuôi dài”, anh đầu tư 1 mẫu ao nuôi cá chim trắng, trồng 3ha lúa nương, vừa để tận thu tiềm năng của đất, tạo cây che phủ, vừa giảm bớt phần nào khó khăn về lương thực, thực phẩm tại chỗ. Vừa chuyển đổi cơ cấu kinh tế, vừa giúp đỡ đồng đội về kinh nghiệm sản xuất, anh nhiệt tình giảng kỹ thuật chăn nuôi trồng trọt cho 8 lớp tại 8 xã vùng cao với 482 người học. Mặc dù bản thân phải vay vốn ngân hàng, nhưng anh vẫn giúp đỡ cho 14 hộ là hội viên nông dân tại địa phương về cây giống chậm trả, trị giá trên 25 triệu đồng. Năm 2003, anh duy trì canh tác 30ha tre Bát Độ đạt hiệu quả kinh tế cao. Ngoài ra, anh còn nghiên cứu và nhân giống thành công giống tre Bát Độ, không chỉ tự túc được giống cho gia đình, mà còn bán thu lợi nhuận cao... Mô hình kinh tế của gia đình anh đã trở thành mẫu mô hình phát triển kinh tế trang trại của địa phương.
Với những đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, anh được tặng thưởng nhiều Bằng khen, Giấy khen và danh hiệu cao quý. Năm 2001, anh được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động. Danh hiệu ấy không chỉ là phần thưởng cao quý cho riêng anh, mà còn là lời tri ân của Đảng, Nhà nước và nhân dân với những con người đã cống hiến không ngơi nghỉ - cả trên chiến trường lẫn trong thời bình. Anh là một trong số ít thương binh được vinh danh ở tầm quốc gia, trở thành biểu tượng của ý chí vượt khó, tinh thần đổi mới sáng tạo và đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” và là hình ảnh sống động về một thương binh “tàn nhưng không phế”.
...Đến hành trình tri ân
Giờ đây, khi ở cái tuổi gần “thất thập, cổ lai hy”, Khổng Minh Quý vẫn tiếp tục bước đi trên con đường nghĩa tình. Trên cương vị Phó chủ tịch Hội Hỗ trợ gia đình liệt sĩ tỉnh Yên Bái (trước đây), nay là tỉnh Lào Cai, anh cùng các hội viên về nơi chiến trường xưa tìm kiến hài cốt, đưa hài cốt liệt sĩ trở về quê nhà. Các anh đến với những gia đình chính sách, thân nhân liệt sĩ, đồng đội cũ - nơi có nước mắt, có niềm tin và những câu chuyện xúc động. Anh là cầu nối giữa các gia đình liệt sĩ và những nguồn lực xã hội, là người tiên phong vận động xây nhà tình nghĩa, tặng sổ tiết kiệm, thăm viếng mộ liệt sĩ, hỗ trợ làm hồ sơ xác minh, đính chính thông tin liệt sĩ... Dù là việc nhỏ hay lớn, anh luôn hết lòng, làm bằng cả trái tim yêu thương. Đặc biệt, anh tích cực kêu gọi sự chung tay từ cộng đồng, doanh nghiệp, các nhà hảo tâm để có nguồn lực tri ân. “Muốn tri ân sâu sắc thì không chỉ bằng lời nói, mà phải bằng hành động thiết thực. Mỗi mái nhà, mỗi suất quà là lời cảm ơn, tri ân gửi đến những người đã hy sinh vì Tổ quốc” - Khổng Minh Quý chia sẻ.
Không chỉ giúp đỡ gia đình liệt sĩ, anh còn gắn bó chặt chẽ với các thương binh, CCB, đồng đội cũ - cùng nhau hỗ trợ phát triển kinh tế, cùng nhau giữ lửa truyền thống. Họ trở thành một tập thể đoàn kết, giàu nghị lực, góp phần giữ gìn bản sắc quê hương và tinh thần yêu nước.
Ở anh hội tụ đủ phẩm chất của một người lính Cụ Hồ: Kiên trung trong chiến đấu, sáng tạo trong thời bình, nghĩa tình với đồng đội, tận tâm với cộng đồng. Từ một thương binh nặng, anh vươn lên thành tấm gương sáng trong phong trào thi đua yêu nước, làm giàu chính đáng và cống hiến không ngừng nghỉ. Không một lời hoa mỹ, không tô vẽ cho hành trình của mình, anh lặng lẽ làm, kiên trì từng việc, ngày nối ngày. Chính sự lặng thầm ấy lại tỏa sáng giữa đời thường, khiến ai gặp anh cũng khâm phục, trân trọng. Với người dân, nhất là các CCB ở tỉnh Lào Cai, Khổng Minh Quý không chỉ là Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới, mà còn là người anh, người đồng đội, người thày, người bạn luôn sát cánh cùng họ trong hành trình vượt khó, vươn lên làm chủ cuộc sống.
Cuộc đời của Khổng Minh Quý - người CCB, thương binh nặng, Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới là minh chứng sinh động cho chân lý: “Trong khó khăn càng sáng ngời phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ”. Hơn ai hết, anh hiểu rõ giá trị của hòa bình và trách nhiệm tiếp nối những điều đồng đội còn để lại. Với anh, tri ân là hành trình không ngừng, không nghỉ và không chỉ bằng lòng biết ơn, mà phải bằng hành động cụ thể. Anh đã và đang sống một cuộc đời thật đẹp, góp phần viết tiếp bản hùng ca Bộ đội Cụ Hồ trong thời đại mới.