Cuộc chiến chống Pháp đang ở thời kỳ cam go, năm 1950, lúc tôi 19 tuổi, đang học Trường Ngô Sĩ Liên - Bắc Giang, xin tình nguyện nhập ngũ thuộc Trung đoàn 36, Đại đoàn Quân Tiên Phong. Chiến dịch Điện Biên Phủ, tôi tham gia cùng trung đoàn chia cắt sân bay Mường Thanh. Kết thúc chiến tranh chống Pháp, năm 1959, tôi được đi đào tạo Trường Lục quân Sơn Tây, Khoa Hóa học. Tốt nghiệp loại ưu, tôi được giữ lại làm giáo viên kỹ thuật hóa học. Năm 1964, đáp ứng yêu cầu của bạn Lào, ở cương vị chi ủy viên, tôi được cùng 3 đồng chí vinh dự sang Cánh Đồng Chum giúp bạn.

Đất nước mới ra khỏi chiến tranh, cuộc sống hòa bình đang gợi lên trong lòng nỗi buồn vui lẫn lộn. Tuy vậy, anh em chúng tôi vẫn cởi mở nhận nhiệm vụ. Cùng đoàn theo các xe chở hàng dọc đường 7 sang thị trấn Khăng Khay. Mặt trận này thuộc Quân khu Cánh Đồng Chum, Xiêng Khoảng. Tôi giữ chức Chủ nhiệm Hóa học của Đoàn chuyên gia Việt Nam. Sau này nhiệm vụ hóa học nhẹ đi, tôi còn kiêm trợ lý tác chiến. Mỗi khi có lệnh hoặc nhiệm vụ gì từ bên nước gửi sang, sau khi qua bộ phận cơ yếu, tôi thường xuyên được đưa tin tới đồng chí Trưởng ban Tác chiến quân khu Chummany Saynhasỏn. Cơ duyên này đã tạo cho tôi mối quan hệ mật thiết với đồng chí.

Từ những vị trí làm việc tại Cánh Đồng Chum, chúng tôi thường vào các bản để mua thực phẩm. Khi giao dịch, dân bản biết chúng tôi là bộ đội Việt Nam, họ rất yêu mến nên lần nào cũng cho thêm. Với các đồng chí bạn, họ lại càng thân mật nên thường xưng hô là em với chúng tôi. Chiến dịch Cù Kiệt 1969-1970, tôi có nhiệm vụ chuẩn bị súng phun lửa cho bạn đánh vào Phu Quạt. Lúc làm kỹ thuật pha chế dung dịch cháy, ban đêm thiếu ánh sáng, đồng chí Chủ nhiệm Hóa học của bạn là Bun Ngà trực tiếp đưa cho tôi chiếc đèn bão Trung Quốc. Nhờ đó, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ rồi giúp bạn thắng lớn, nhưng đồng chí Bun Ngà đã anh dũng hy sinh. Chiếc đèn bão đã trở thành kỷ vật tôi còn mang theo cho tới ngày về nước.

Do yêu cầu phát triển cán bộ, tháng 5-1973, tôi được về nước bổ túc Tham mưu trưởng 1 năm tại Học viện Quân sự cấp cao. Năm 1974, kết thúc khóa học, tôi trở lại Đoàn và về Sầm Nưa. Tại đây tôi rất ghi nhớ một sự kiện: Trong lễ tổ chức kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập QĐND Việt Nam 22-12-1974, đồng chí Khămtày Siphănđon thay mặt Quân ủy T.Ư Quân giải phóng Lào có bài diễn văn đầy xúc động. Bài diễn văn tôi đã ghi lại đầy đủ vào cuốn sổ lưu niệm mà bạn tặng. Bài diễn văn đoạn kết có nói: Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại từng nói: “Việt - Lào hai nước chúng ta, tình sâu như nước Hồng Hà, Cửu Long”. Chúng tôi nguyện làm cho lời thề đó càng thêm mặn nồng”. Cuốn sổ, chiếc đèn bão cùng 11 kỷ vật nữa, tôi đã gửi cho Ban Sưu tầm kỷ vật tại Hà Nội.

Kết thúc chiến tranh chống Mỹ, tháng 2-1975, tôi được về nước, công tác tại cơ quan Đoàn Chuyên gia quân tình nguyện, tham gia viết tổng kết những năm giúp bạn. Năm 1976, căn bệnh thần kinh tọa ập đến, tôi phải điều trị một thời gian, sau khi bình phục thì nghỉ hưu năm 1977, với hàm Đại úy. Trở về với gia đình ở xã Cao Xá (Tân Yên, Bắc Giang) nhưng vẫn nhớ Lào da diết; nhớ Cánh Đồng Chum, nhớ anh em bên ấy một thời sống chết bên nhau nằm hầm, cơm vắt.

Thời gian cũng dần lui vào dĩ vàng, bỗng năm 1989, trước ngày 19-5, tôi nhận được giấy mời sang thăm bạn từ Ban liên lạc Đoàn chuyên gia gửi về. Niềm vui khôn xiết, vừa chuẩn bị tư liệu gửi về Hà Nội để làm thủ tục cho chuyến đi lịch sử này, vừa thấp thỏm đến mất ngủ. Ngày 21-5, Đoàn gồm 15 anh em từ sân bay Nội Bài tới thủ đô Viêng Chăn. Xuống máy bay được xe bạn đón đưa một vòng chạy quanh thủ đô Viêng Chăn, ngắm con sông Mê Công thơ mộng mà tôi chưa bao giờ có dịp. Về nhà khách Bộ Quốc phòng, ở đây 1 tháng, chúng tôi đi thăm một số đơn vị, thăm các danh lam thắng cảnh của xứ sở triệu voi.

Điều mà tôi cảm động nhất là buổi gặp mặt tại Nhà khách Bộ Quốc phòng, từ hàng ghế dành cho lãnh đạo bạn, đồng chí Chumany Saynhasone lúc này là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng xuống bắt tay tôi như một đặc cách. Ai nấy đều ngạc nhiên trước cử chỉ mà đồng chí đã nhận ra người đã từng một thời gắn bó. Cũng trong buổi gặp mặt, người thay mặt bạn trao quà cho chúng tôi là Thứ trưởng Ôsacăn - thương binh mất một chân. Đồng chí hỏi một câu đầy tình nghĩa: “Tại sao các chị, các cháu không sang? Chúng tôi mời cũng là biết công của các chị đâu có kém gì chúng ta những ngày chiến đấu”.

Tiếp đó, bạn đưa Đoàn chúng tôi thăm Sư đoàn 5 - sư đoàn cùng ta phá vụ bạo loạn do Hoàng Cơ Minh cầm đầu. Trong bữa cơm chiêu đãi, Sư trưởng Buncơn khi nâng chén có nói một câu đầy khiêm tốn làm tôi rưng rưng lệ: “Em trưởng thành là nhờ công các bác, xin cảm ơn các bác, xin nâng chén chúc mừng”. Lần khác đến với Sư đoàn 4, một sư đoàn thuộc vùng Trung Lào, bạn cũng đón tiếp như những người anh mới đi xa về. Lần tới thăm Tỉnh ủy Xa Va Na Khẹt lại có điều xúc động hơn. Đồng chí Phôsay - Thường trực Tỉnh ủy khi đón đã ôm lấy chúng tôi mà khóc, khóc cho đến lúc tiễn chúng tôi lên xe. Chúng tôi cũng khóc, khóc nhiều, khóc trong niềm vui. Những cử chỉ, lời nói đầy ắp tình anh em của bạn dành cho chúng tôi chỉ có thể có được ở bạn Lào xúc động lắm!

Nguyễn Tiến Lộc (Ghi theo lời kể của CCB Nguyễn Bá, xã Cao Xá, Tân Yên Bắc Giang - nguyên chuyên gia Quân tình  nguyện tại Lào)