CCB Tiểu đoàn 16 (phân khu 2 - Long An) đón nhận danh hiệu Anh hùng LLVTND.

Bài thơ “Dáng đứng Việt Nam”của nhà thơ Lê Anh Xuân - viết về người chiến sĩ dũng cảm hy sinh trên đường băng Tân Sơn Nhất, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân năm 1968, đã được rất nhiều thế hệ, đặc biệt là với người lính từng đi qua trận mạc say mê những câu thơ và hình tượng bi tráng của người chiến sĩ trong bài thơ. Thế nhưng ít ai biết nguyên mẫu bài thơ đó lại xuất thân từ hai chiến sĩ của Tiểu đoàn 16, Phân khu 2 - Long An trong kháng chiến chống Mỹ. Bài thơ “Dáng đứng Việt Nam” của nhà thơ Lê Anh Xuân có đoạn:

“Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhứt

Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng

Và Anh chết trong khi đang đứng bắn

Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.

Chợt thấy anh, giặc hốt hoảng xin hàng

Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn

Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm

Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công…”.

45 năm sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân Mậu Thân 1968 (năm 2013), Tiểu đoàn 16, Phân khu 2 Long An và liệt sĩ Nguyễn Văn Sáu (nguyên Chính trị viên Tiểu đoàn) vinh dự được Chủ tịch nước truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND (lễ đón nhận được tổ chức ngày 2-8-2013 tại Bộ CHQS tỉnh Long An). Hòa trong niềm vui chung của cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 16, chúng tôi như được sống lại không khí sôi động của những ngày tháng hào hùng và bi tráng đó.

Theo một số CCB Tiểu đoàn 16 kể lại, công tác chuẩn bị chiến dịch Mậu Thân 1968 rất khẩn trương, bí mật. Tiểu đoàn chỉ có khoảng 1 tháng vừa tìm hiểu thực địa chiến trường đồng bằng, vừa huấn luyện, sắp xếp lực lượng, củng cố để chuẩn bị nhận nhiệm vụ quan trọng.

Ngày 29-1-1968 (tức ngày 28 Tết Nguyên đán), Tiểu đoàn 16 được lệnh xuống chiến trường. Sau 1 đêm hành quân, vượt sông Vàm Cỏ Đông, toàn Tiểu đoàn đã tập kết đúng thời gian tại đình Mỹ Hạnh, huyện Đức Hòa (Long An). 16 giờ ngày 30-1, Tiểu đoàn nhận lệnh tiến công địch của Bộ Chỉ huy Miền, được sắp xếp vào đội hình Trung đoàn 31 của Phân khu 2 - Long An, có nhiệm vụ đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất từ góc tây nam, tiếp đó đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu ngụy rồi phát triển sâu vào nội đô và hội quân tại dinh Độc Lập.

Theo kế hoạch tác chiến, đúng giờ G, pháo binh của Bộ Tư lệnh Miền sẽ bắn vào sân bay là tiếng súng phát lệnh tiến công cho các cánh quân đánh vào Sài Gòn. Tuy nhiên không hiểu vì lý do gì, giờ G đã trôi qua, sân bay Tân Sơn Nhất vẫn yên lặng…

Đợi đến 2 giờ sáng ngày 31-1-1968, Tiểu đoàn khai hỏa loạt cối 82mm bắn vào sân bay; đồng thời, mũi xung kích tiến đánh vào trong sân gay. CCB Đồng Quang Hải (Quảng Xương, Thanh Hóa) kể: Trận đánh chiếm lô cốt đầu cầu góc tây nam sân bay rất cam go. Những trái B40 vẫn chưa thể dập tắt hỏa lực địch. Bộ đội ta một số bị thương vong, xung kích 1 phải điều tổ đánh bộc phá lên. Đồng chí Đồ (Đại đội 2) ôm bộc phá dũng cảm xông thẳng vào lỗ châu mai có khẩu đại liên đang bắn. Bộc phá nổ, đồng chí Đồ anh dũng hy sinh, lô cốt đầu cầu bị đánh sập, các chiến sĩ Đại đội 2, Đại đội 3 nhanh chóng tiến vào trong sân bay.

Đại đội 1 theo đường tuần tra bên phải tiến đánh, chiếm được 2 nhà để máy bay, nhưng sáng 31-1-1968, địch củng cố lực lượng và bắt đầu phản kích. Đại đội 1 bám sát từng xác xe tăng địch để chiến đấu, đẩy lùi nhiều đợt phản kích, tiêu diệt hơn 150 tên địch, bắn cháy 5 xe tăng. Đến trưa thì Đại đội 1 hết đạn, hy sinh gần hết. Chính trị viên phó Nguyễn Cống Mẹo (Đồng Tiến, Triệu Sơn, Thanh Hóa) đã hy sinh trong tư thế tựa người vào xác chiếc xe tăng M.41, tay vẫn kẹp chặt khẩu súng AK chĩa họng súng về phía quân địch khiến chúng hoảng hốt giơ tay xin hàng. (hình tượng đó chính là nguồn cảm hứng để nhà thơ Lê Anh Xuân sáng tác bài thơ “Dáng đứng Việt Nam”).

Đại đội 2 đánh vòng theo đường tuần tra bên trái tiến sát khu gia binh, đẩy lui bọn địch vào sâu, diệt 170 tên, bắn hủy 4 xe tăng và xe bọc thép M.113. Đến trưa, quân ta hết đạn, lại bị địch phản kích dữ dội, nên trên ra lệnh mở đường máu để thoát ra khu hãng dệt Vinatexco.

CCB Phan Văn Tiệp (Thạch Định, Thạch Thành, Thanh Hóa) kể: Địch huy động trực thăng bắn xối xả xuống đội hình quân ta trên bãi đất trống làm ta thương vong khá nhiều. Chúng còn cho một đoàn xe tăng từ Gò Vấp chạy xuống cắt ngang lộ 1, bắn 12,7 ly và pháo tự hành dọc theo lộ. Trung đội đại liên ta đánh trả quyết liệt, bắn rơi 2 trực thăng và 1 máy bay khu trục. Đại đội 3 bộ binh và các lực lượng bên ngoài sân bay của Tiểu đoàn 16 lúc này chỉ còn chưa đầy 100 quân vẫn bám trụ đánh địch suốt ngày 31-1-1968, tiêu diệt thêm 3 xe tăng M.41, bắn rơi 1 trực thăng, diệt hàng trăm tên Mỹ - ngụy.

CCB Vũ Chí Thành - nguyên Trung đội phó Trung đội hỏa lực kể: Sau trận đánh vào Tân Sơn Nhất, 2 đại đội đánh sâu vào sân bay chỉ còn vài người còn sống và bị thương nặng. Sau khi về đến hậu cứ, các chiến sĩ còn sống sót đã kể lại tình hình chiến trường và gương chiến đấu và hy sinh anh dũng của Chính trị viên Nguyễn Văn Sáu và Chính trị viên phó Nguyễn Công Mẹo cho chỉ huy và phóng viên chiến trường nhà báo, nhà thơ Hoài Vũ đang tác nghiệp trong chiến dịch. Dựa vào lời kể của các chiến sĩ, nhà báo - nhà thơ Hoài Vũ đã viết bài ký “Thư Tân Sơn Nhứt” (ngày 2-2-1968) với nhiều câu chuyện chiến đấu dũng cảm của các đơn vị như Tiểu đoàn 16, Tiểu đoàn 267, Tiểu đoàn 12 đặc công, Biệt động thành Gò Môn... Trong bài ký này có đoạn miêu tả về 2 chiến sĩ đã hy sinh nhưng vẫn ôm khẩu súng dựa người trên xác xe thiết giáp M.41 đã bị bắn cháy mà không ngã xuống.

Sau đó, từ hình tượng này, nhà thơ Lê Anh Xuân đã viết thành bài thơ “Anh giải phóng quân” về hình tượng 2 người chiến sĩ (tháng 3-1968). Ban đầu, bài thơ được lưu truyền rộng rãi trong bộ đội và nhân dân Long An, sau đó mới được đổi tên thành “Dáng đứng Việt Nam”. Chỉ chưa đầy 2 tháng sau khi viết bài thơ “Dáng đứng Việt Nam”, ngày 5-6-1968, nhà thơ Lê Anh Xuân hy sinh tại chiến trường Cần Đước, Long An.

Theo CCB Vũ Chí Thành, 2 chiến sĩ này tì người trên xác xe tăng M.41 chứ không phải xác trực thăng như trong bài thơ. Lúc này, liệt sĩ Nguyễn Công Mẹo ôm khẩu AK, còn 1 chiến sĩ thì tì khẩu 12,7 ly lên xác chiến xa làm điểm tựa. Tên lính Mỹ theo đoàn xe tăng phản kích bị xác chiến xa che khuất nên không thấy, khi vượt qua chiến xa thì thấy bóng dáng 2 khẩu súng chỉa thẳng về phía mình nên giật mình ngã ngửa về sau, súng rơi khỏi tay nên vội vàng ôm đầu, xin đầu hàng. Mãi không thấy động tĩnh, khi tên lính Mỹ đứng dậy đến gần mới phát hiện 2 anh Giải phóng quân đã chết, chỉ là chưa ngã xuống và súng vẫn trên tay…

Trận đánh sân bay Tân Sơn Nhất của Tiểu đoàn 16 - Phân khu 2 - Long An là trận đánh với tinh thần quyết chiến quyết thắng, sẵn sàng chiến đấu hy sinh, dũng cảm kiên cường, còn 1 người cũng đánh đến cùng. 380 cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 16 đã vĩnh viễn nằm lại trên đất Sài Gòn. Trong đó, có 1 ngôi mộ tập thể gồm 181 cán bộ, chiến sĩ, sau này nhờ có người lính cứu hỏa của chế độ Sài Gòn chỉ giúp nên mới được quy tập về nghĩa trang liệt sĩ.

Với những cống hiến và hy sinh to lớn, Tiểu đoàn 16, Phân khu 2 - Long An  được Nhà nước tặng thưởng 320 huy hiệu Dũng sĩ quyết thắng, 150 huy hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ... 45 Huân chương Chiến công cho tập thể, cá nhân và nhiều phần thưởng khác. Ngày 2-8-2013, Tiểu đoàn 16 và liệt sĩ Nguyễn Văn Sáu (nguyên Chính trị viên Tiểu đoàn) được Chủ tịch nước truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND.

Trung Dũng