Ngày 16-9-1972, kết thúc 81 ngày đêm khói lửa bảo vệ Thành cổ Quảng Trị - khúc tráng ca hào hùng của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trận chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị đã ghi vào lịch sử dân tộc những trang bi hùng, thể hiện cao nhất ý chí, khát vọng chiến đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc, thống nhất đất nước...
Khúc tráng ca bất hủ
Trong 81 ngày đêm chiến đấu ác liệt bảo vệ Thành cổ, ta đã tiêu diệt 2 sư đoàn chiến lược của ngụy, diệt 26.000 tên, đánh thiệt hại 19 tiểu đoàn, phá 349 xe quân sự - trong đó có 200 xe tăng, bắn rơi 205 máy bay, thu 500 súng các loại... Các chiến sĩ đã hứng chịu 328.000 tấn bom đạn (tương đương 7 quả bom nguyên tử Mỹ thả xuống Hirôsima - Nhật Bản trong thế chiến II). Quân bình mỗi chiến sĩ chịu 100 quả bom và 200 quả đạn pháo...
Dải đất hẹp Quảng Trị anh dũng tuyệt vời nhưng cũng đau thương tột cùng, đã có bao liệt sĩ hy sinh nơi mảnh đất này và cũng từ nơi đây, có những người lính mang thương tích trở về. Một trong số đó là CCB, thương binh Trịnh Bá Sướng, quê ở làng Yên Lộ, xã Yên Nghĩa, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay là phường Yên Nghĩa, TP. Hà Nội). Giữa những ngày đánh Mỹ khốc liệt nhất, cuối năm 1971, anh nhập ngũ vào Sư đoàn 320B. Sau khóa huấn luyện, anh được bổ sung vào Đại đội 1, Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 88 (Đoàn Tu Vũ), Sư đoàn 308 Quân tiên phong và lên đường vào chiến trường.
Ký ức Quảng Trị
Qua dải đất miền Trung dài dằng dặc, đến Vĩnh Linh, đơn vị nghỉ lại một thời gian để lấy sức. Tối 20-4 vượt sông Bến Hải rồi cấp tốc chuyển tới Nam đường 9. Trận đầu tiên, Tiểu đoàn đánh cao điểm 35 vào ngày 25-4-1972. Trận này, đơn vị bị tổn thất không nhỏ nên buộc phải rút lui. Sau 3 ngày củng cố, ngày 28-4 ta hạ quyết tâm đánh sập cao điểm 35 và cao điểm 37 cách nhau không xa. Được xe tăng của Đoàn 203 hỗ trợ, cả đơn vị ào ạt tiến công. Sau mấy giờ chiến đấu quyết liệt, ta đã hoàn toàn làm chủ hai cao điểm. Chiến thắng đầu tiên của Tiểu đoàn 4 góp phần vào chiến dịch giải phóng Quảng Trị ngày 1-5-1972. Tiếp đó, đơn vị thọc sâu vào đất Trị Thiên tham gia nhiều trận chiến ác liệt.
Ngày 13-7-1972, Tiểu đoàn 4 nhận lệnh rút từ Trị Thiên ra để chặn địch đang tiến quân tái chiếm Quảng Trị. Ngày 22-7, Đại đội 1 của Trịnh Bá Sướng đã tập kích vào Lữ đoàn dù 18 của địch. Một số anh em bị thương nên rút về điểm dừng chân ở La Vang, rìa thị xã. Ngay sáng hôm sau, đơn vị bị một trận pháo kích dữ dội làm nhiều chiến sĩ bị thương. Sáng 27-7, Đại đội 1 cùng Đại đội 2 đánh chặn bọn lính thủy quân lục chiến hành quân từ ngã tư đường sắt đánh vào La Vang. Một số anh em của 2 đại đội bị thương phải cáng về phía sau. Đêm 29-7, đơn vị lại bị một trận pháo hóa học, khói mù mịt làm mọi người sặc sụa... Sáng ngày 1-8, địch thả bom đào, nhằm phá sập các hầm của đại đội. Trịnh Bá Sướng đang ngồi trong hầm với anh Mứt - Đại đội trưởng thì hầm bị bom làm sập hoàn toàn cửa sau. Hai anh em chui qua khe hẹp của cửa trước rồi chạy về chiếc lô cốt ở gần đó. Ở trại Gia Long 10 ngày, phải hứng chịu nhiều lần bom đạn, bị tổn thất lực lượng lớn, Đại đội rút trở về Tích Tường nghỉ lấy sức và tham gia tải thương cho Tiểu đoàn. Đến 10-8 thì quay lại Gia Long, ém quân gần chân cầu sắt bắc qua sông Thạch Hãn. Những ngày ém quân tại đây đại đội cũng chịu nhiều tổn thất vì bom đạn.
Kiên cường chiến thắng “thần chết”
Sau những trận đánh khốc liệt với lực lượng tinh nhuệ, lính dù và Liên đoàn biệt động Sài Gòn, giữa tháng 8 kiểm lại 2 đại đội của Tiểu đoàn đã bị hao hụt gần hết, còn được 21 người, dồn lại lấy tên là Đại đội 2 do anh Mứt là quyền Đại đội trưởng và anh Khôi - quyền Chính trị viên. Tiểu đội trưởng Trịnh Bá Sướng được giao nhiệm vụ dẫn đầu một số anh em trực tiếp tập kích địch.
Đúng 12 giờ đêm 19-8-1972, đơn vị xuất kích bí mật trườn vào bãi mìn. Tiểu đội trưởng Sướng đi đầu rút dao găm cắt dây mìn Claymo dẫn đội áp sát nhà bằng mà địch vẫn không hay biết. Anh em chia làm 2 tốp, một tốp vỗ mặt trực diện, một tốp (do Sướng chỉ huy) đánh tạt sườn trái. Thật không may, tiếng chỉ huy qua máy bộ đàm 2W của đơn vị chợt vang lên khiến quân địch nghe được. Chiến sĩ thông tin chưa kịp xử lý thì hàng loạt các loại đạn đã xối xả bắn vào nơi phát ra tiếng nói - trong lúc anh em chưa kịp triển khai đội hình chiến đấu. Địch bắn pháo sáng khiến bầu trời sáng rực, nhìn rõ từng ngọn cỏ. Pháo làn dội xuống như mưa. Cả đơn vị phơi mình không kịp tìm nơi ẩn nấp. Trịnh Bá Sướng chỉ kịp lao mình xuống hố pháo bên cạnh còn khét mùi khói lửa. Kinh nghiệm và bản lĩnh đã cứu sống anh trong gang tấc. Ghé mắt trên mép hố, anh thấy đám mũ sắt nhấp nhô đang bò tới, liền rút 2 quả lựu đạn mỏ vịt ném tới tiêu diệt tốp địch.
Dứt tiếng pháo là tiếng rít của máy bay địch thả bom chặn đường rút của ta. Nhìn xung quanh không thấy một bóng người, Trịnh Bá Sướng đoán là đơn đã hy sinh hết cả rồi. Để đề phòng, anh xả một loạt AK vào những chỗ khả nghi có địch ẩn nấp. Đúng lúc đó, một quả M79 nổ ngay trước mặt làm anh bị mảnh đạn văng vào cạnh mắt trái, anh vội cúi xuống. Khi vừa nhô lên lại bị tiếp một quả đạn nổ ngay sau lưng, anh gục hẳn không còn biết gì nữa. Tiếng súng đã im, đêm lặng như tờ. Khi tỉnh lại nhìn xung quanh chỉ có ánh trăng lưỡi liềm của đêm mùng 10-7 âm lịch mờ ảo. Sờ sau gáy thấy máu ướt đẫm, anh biết mình bị thương nặng vào đầu, cố bò ra phía bờ sông Thạch Hãn. Nhưng rồi, anh lại vướng phải dây khiến mìn nổ nên bị hất nằm vật ra không còn biết trời đất gì nữa. Hồi lâu tỉnh lại, sờ khắp người chỗ nào cũng bê bết máu, khắp cơ thể đau đớn đến vô cùng.
Cố gắng cởi chiếc khăn dù quàng ở cổ, anh thít chặt đùi trái rồi lấy chiếc dây quấn báng phụ khẩu AK buộc chặt cổ chân, trong đầu chỉ nghĩ sống chết gì cũng phải bò về đơn vị. Bò tới chân đường Quốc lộ số 1 thì anh ngất đi không biết gì nữa. Khi chợt tỉnh, hé mắt nhìn thì thấy chân trời đã phớt hồng, anh nghĩ: Nếu không bò qua đường 1 được mà vẫn nằm ở phía địch thì rất dễ bị bắt sống hoặc bắn chết. Anh dựa vào ta luy đường nghỉ lấy sức. Trời đã sáng rõ, Sướng ôm chặt súng nghiến răng cố leo lên mặt đường 1, dựng súng bắn một loạt chỉ thiên để báo hiệu. Liên miên lúc tỉnh lúc mê tới khi mặt trời gần đứng bóng, cái nắng như thiêu đốt anh mới tỉnh. Bản năng sống trỗi dậy, anh ôm chặt súng cắn răng lăn từ mặt đường xuống chân đường phía ta rồi lại ngất đi mê man. Chỉ biết đến khi tỉnh dậy, Sướng thấy lờ mờ 3 bóng người đang lom khom tiến lại gần...
Sau này nghe kể mới biết, đó là anh Tư - Trung đội trưởng cùng Deo và Thủy là lính mới bổ sung. Thủy được giao cõng Sướng, nhưng mới đi được vài bước, tay Sướng rời khỏi cổ Thủy ngã vật xuống đất, người nhũn ra như sợi bún. Thì ra các mảnh đạn bom xuyên phổi, sau gáy, giữa xương sườn số 5 và số 6 lại xuyên tiếp vào phổi khiến anh đau đớn và không thở được. Đi được mấy bước, Thủy lại hạ Sướng xuống để thở. Tới gần đầu cầu sắt thì địch xả súng, đáp lại là tiếng AK47 yểm trợ để đưa Sướng về hầm Đại đội. Anh Mứt, anh Khởi đã cùng anh Đính - y sĩ Tiểu đoàn xuống cắt quần áo, giày tất băng bó cho Trịnh Bá Sướng, rồi cáng về Trạm phẫu thuật của Trung đoàn điều trị. Tiếp đó là những tháng ngày điều trị triền miên tại các bệnh viện.
Sau khi điều trị các vết thương, Trịnh Bá Sướng không còn đủ sức khỏe để phục vụ tiếp trong quân đội. Tháng 1-1975 anh phục viên trở về quê hương. Với những thành tích trong chiến đấu, anh được tặng thưởng Huy chương chống Mỹ hạng Nhất và Giấy khen “Chiến đấu dũng cảm” của Sư đoàn 308. Được hưởng chế độ thương binh 2/4 với thương tật 71% và chế độ chất độc da cam 35%. Tâm sự về kỷ niệm những tháng ngày ở chiến trường Quảng Trị, Trịnh Bá Sướng cười hiền: “Còn sống được về với gia đình là hạnh phúc lớn nhất rồi. Tôi thấy còn may mắn hơn bao anh em đồng đội đã hy sinh, phải nằm lại mảnh đất bom đào, đạn xới và dưới sông Thạch Hãn...”.
Trở về quê hương, CCB Trịnh Bá Sướng được giao làm kế toán hợp tác xã; tích cực tham gia hoạt động trong Ban liên lạc CCB (BLL) Sư đoàn 308 Quân tiên phong, Trung đoàn 88 - Đoàn Tu Vũ anh hùng, rồi sáng tác thơ, viết hồi ký... như một sự giải tỏa nỗi lòng. Từ khi bước qua tuổi 70, sức khỏe của ông cũng suy giảm nhiều không chỉ do tuổi tác mà còn do nhiều căn bệnh mạn tính và đặc biệt là do những mảnh đạn của quân thù vẫn nằm sâu trong cơ thể. Nhưng mỗi khi có việc của BLL Sư đoàn hay BLL Trung đoàn, ông đều tham gia đầy trách nhiệm. Như các đợt tu tạo, tổ chức Lễ dâng hương, tri ân tại Khu tưởng niệm các Anh hùng liệt sĩ của Đoàn Tu Vũ ở Thái Nguyên, ông đều tham gia từ khâu lên kế hoạch. Đặc biệt là những năm BLL CCB Sư đoàn quân tiên phong tổ chức hành quân về chiến trường xưa Quảng Trị, ông đều cố gắng tham gia, trừ khi đang phải nằm điều trị bệnh. Mỗi lần tham gia những hoạt động tri ân đồng đội, ông đều viết tin, bài đăng Báo CCB Việt Nam và các báo khác nhằm lan tỏa nghĩa tình đồng đội và góp phần giáo dục truyền thống trong xã hội.
Cũng như những năm tháng chiến đấu trên chiến trường Quảng Trị năm xưa, CCB, thương binh Trịnh Bá Sướng vẫn đang kiên cường chiến đấu với thương tích, bệnh tật để cố gắng mang lại cho đời những giá trị tốt đẹp.