Luật Lâm nghiệp: Gồm 12 chương, 108 điều, tăng 4 chương và 20 điều so với Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004. Đây là luật quan trọng, thu hút được sự quan tâm rộng rãi của nhân dân, đặc biệt là những người làm rừng.
Luật Lâm nghiệp đã mở rộng phạm vi điều chỉnh theo hướng liên kết theo chuỗi các hoạt động lâm nghiệp từ quản lý, bảo vệ, phát triển, sử dụng rừng, kinh doanh, chế biến và thương mại lâm sản (Điều 1); thể hiện rõ lâm nghiệp là ngành kinh tế - kỹ thuật đặc thù, gồm tất cả các hoạt động gắn liền với sản xuất hàng hóa và dịch vụ liên quan đến rừng (Khoản 1 Điều 2). Đây là một trong những điểm mới quan trọng nhất, có liên quan đến toàn bộ nội dung cũng như cấu trúc của Luật.
Luật Lâm nghiệp có hiệu lực từ ngày 1-1-2019.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD): Để triển khai thực hiện Đề án cơ cấu lại hệ thống TCTD gắn với nợ xấu giai đoạn 2016-2020, việc sửa đổi, bổ sung Luật Các TCTD để tạo lập khuôn pháp lý cho việc xử lý TCTD yếu kém là yêu cần cần thiết.
Luật này gồm 3 điều, trong đó: Điều 1 sửa đổi, bổ sung 32 điều; bổ sung mới 28 điều; Điều 2 về điều khoản thi hành, Điều 3 về quy định chuyển tiếp. Có hiệu lực từ ngày 15-1-2018.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cơ quan đại diện nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ở nước ngoài: Mục đích ban hành Luật là nhằm triển khai thực hiện Hiến pháp năm 2013, thể chế hóa các quy định mới của Đảng về thống nhất quản lý, hoạt động đối ngoại, bảo đảm phù hợp với các chuyên nghành có liên quan, khắc phục các vướng mắc, bất cập trong quá trình thực hiện Luật Cơ quan đại diện năm 2009, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước tại quốc gia, tổ chức quốc tế tiếp nhận, đáp ứng yêu cầu chủ động và tích cực hội nhập sâu rộng và toàn diện trong giai đoạn hiện nay.
Luật chỉ quy định sửa đổi, bổ sung đối với 11 điều trong số 36 điều của Luật Cơ quan đại diện hiện hành. Luật có hiệu lực từ ngày 1-7-2018.
Luật Thủy sản: Gồm 9 chương, với 105 điều, giảm 1 chương và tăng 43 điều so với Luật Thủy sản 2003.
Luật có các nội dung mới như: Quy định về đồng quản lý trong bảo vệ nguồn lợi thủy sản; quy hoạch về bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản, điều tra đánh giá nguồn lợi thủy sản; các quy định về cấp phép khai thác thủy sản; quy định về nuôi trồng thủy sản; quản lý tàu cá, cảng cá và khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá; Quy định về Kiểm ngư... Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2019.
Luật Quản lý nợ công: Gồm 10 chương với 63 điều quy định về hoạt động quản lý nợ công, bao gồm huy động, sử dụng vốn vay, trả nợ và các nghiệp vụ quản lý nợ công, có hiệu lực từ ngày 1-7-2018.
Luật Quản lý nợ công số 20/2017/QH14 được ban hành, thay thế Luật Quản lý nợ công năm 2009 nhằm thể chế hóa chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước về quản lý nợ công an toàn, bền vững, hiệu quả, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ mới; kế thừa những ưu điểm, những mặt tích cực của các quy định tại Luật Quản lý nợ công năm 2009 đã được áp dụng ổn định, đồng thời khắc phục các tồn tại, hạn chế phát sinh trong thời gian qua; bảo đảm tuân thủ Hiến pháp năm 2013 và tính thống nhất, đồng bộ với các luật liên quan.
Luật Quy hoạch: Gồm 6 chương, 59 điều và 3 phụ lục, Luật Quy hoạch có các quy định cụ thể liên quan đến hệ thống quy hoạch và mối liên hệ giữa các loại quy hoạch; nguyên tắc chủ yếu trong hoạt động quy hoạch; nội dung quy hoạch; tổ chức lập, thẩm định và phê duyệt quy hoạch; thẩm quyền quyết định và phê duyệt quy hoạch; trách nhiệm quản lý nhà nước và thông tin quy hoạch; quy định chuyển tiếp; sửa đổi các luật để đảm bảo đồng bộ với Luật Quy hoạch...
Các quy định của Luật này về lập, thẩm định quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh có hiệu lực thi hành từ ngày 1-3-2018.
Vũ Minh