Vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản mà bên vay sử dụng nhà đất ở địa chỉ 19B Phan Đình Phùng để thế chấp vay vốn đã được TAND quận Ba Đình (Hà Nội) đưa ra xét xử. Theo đó, HĐXX buộc bị đơn phải thanh toán số tiền vay và tiền lãi cho nguyên đơn; buộc bên cho vay trả lại tài sản thế chấp khi bên vay hoàn thành nghĩa vụ trả nợ...

Theo bản án sơ thẩm của TAND quận Ba Đình, trong các ngày 26, 30-6 và 5-7-2023, Hội đồng xét xử (HĐXX) TAND quận Ba Đình đã đưa vụ án “Tranh chấp Hợp đồng vay tài sản” giữa nguyên đơn là ông Văn Hồng Phương, sinh năm 1941 (đã chết ngày 21-8-2021) và bà Nguyễn Thị Tuyết, sinh năm 1945 có địa chỉ tại 19B Phan Đình Phùng, phường Quán Thánh, quận Ba Đình, TP.Hà Nội với bị đơn là bà Nguyễn Thị Kim Thanh, sinh năm 1949 (đã chết ngày 19-9-2021) và ông Ngô Huy Tâm, sinh năm 1942 có hộ khẩu thường trú tại 19B Phan Đình Phùng, phường Quán Thánh, quận Ba Đình, T.P Hà Nội ra xét xử.

Tại phiên Tòa, do ông Văn Hồng Phương (tức Nguyễn Hồng Phương) đã chết, nên người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Phương là bà Nguyễn Thị Tuyết; Nguyễn Quỳnh Dung, sinh năm 1968; Nguyễn Minh Phượng, sinh năm 1980 và ông Nguyễn Quang Huy, sinh năm 1981. Bà Dung được các người thừa kế quyền và nghĩa vụ của ông Phương ủy quyền giải quyết vụ án.

Về phía bị đơn, do bà Thanh cũng đã chết nên người thừa kế quyền và nghĩa vụ của bà Thanh là ông Ngô Huy Tâm và ông Ngô Đức Trung, sinh năm 1980; bà Ngô Thị Lan Phương, sinh năm 1975. Ông Tâm, bà Phương ủy quyền cho ông Trung tham gia giải quyết vụ án tại Tòa.

Bản án xác định: Ngày 6-2-2007, vợ chồng ông Văn Hồng Phương và bà Nguyễn Thị Tuyết và vợ chồng ông Ngô Huy Tâm và bà Nguyễn Thị Kim Thanh đã thỏa thuận ký hợp đồng vay tiền, với số tiền 5 tỷ đồng trong thời gian vay 6 tháng, lãi suất 1,5%/tháng. Hợp đồng vay tiền được hai bên công chứng tại Phòng công chứng số 3, T.P Hà Nội.

Quá trình thực hiện hợp đồng, bên vay vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Vì vậy nguyên đơn (bên cho vay - PV) khởi kiện đề nghị Tòa án buộc bị đơn thực hiện đúng các cam kết trong hợp đồng vay nợ ký ngày 6-2-2007. Hai bên đều thống nhất khoản tiền bị đơn còn nợ nguyên đơn 5 tỷ đồng tiền gốc và lãi.

Theo bản án, thời hạn khoản vay 6 tháng tính cả gốc và lãi đến khi tất toán hợp đồng (ngày 6-8-2007) là 5,45 tỷ đồng.

Tuy nhiên, HĐXX nhận định số tiền lãi quá hạn bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn tính từ ngày chậm thanh toán theo Hợp đồng vay tiền (từ ngày 7-8-2007) đến khi đưa vụ án ra xét xử, tương ứng với thời gian 190 tháng 28 ngày với khoản tiền lên tới gần 11 tỷ đồng. Tổng số tiền cả gốc và lãi trong thời hạn vay, lãi quá hạn do chậm trả đến thời điểm đưa vụ án ra xét xử phía bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn hơn 16 tỷ đồng (16.196.369.863 đồng).

Tòa xác định đây là khoản vay chung của vợ chồng bà Thanh ông Tâm. Quá trình giải quyết vụ án do bà Thanh đã chết nên những người thừa kế của bà Thanh có nghĩa vụ phải thanh toán khoản tiền cho nguyên đơn.

Về yêu cầu của nguyên đơn buộc phía bị đơn phải thực hiện biện pháp đảm bảo nghĩa vụ trả nợ, cụ thể là công nhận quyền sở hữu nhà và đất ở 19B Phan Đình Phùng thuộc về nguyên đơn; buộc bị đơn phải tiến hành các thủ tục sang tên nhà đất theo qui định của Luật Đất đai, HĐXX nhận thấy “Nhà đất tại địa chỉ căn hộ 19 (1P), nhà A2 Tập thể Quân đội, số 25A Phan Đình Phùng (nay là số 19B Phan Đình Phùng), phường Quán Thánh, quận Ba Đình, T.P Hà Nội chưa được đăng ký giao dịch đảm bảo tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai khu vực các quận Ba Đình, Hoàn Kiếm, Đống Đa”.

Do đó, HĐXX nhận định trong trường hợp này hai bên không thực hiện việc đăng ký giao dịch bảo đảm với tài sản bảo đảm là quyền sở hữu nhà và quyền sở hữu đất ở để đảm bảo cho khoản vay nên không phát sinh giá trị pháp lý đối với giao dịch bảo đảm trong trường hợp bên vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ.

Ngoài hợp đồng vay tiền thì hai bên chưa ký kết với nhau hợp đồng chuyển nhượng nhà đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất vẫn đứng tên bà Nguyễn Thị Kim Thanh.

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa xét xử, phía bị đơn cũng không đồng ý chuyển nhượng nhà đất cho nguyên đơn.

Vì vậy, HĐXX đã bác yêu cầu của phía nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn thực hiện biện pháp đảm bảo nghĩa vụ trả nợ theo Hợp đồng vay nợ ngày 6-2-2007.

Xét yêu cầu phản tố của bị đơn, HĐXX nhận thấy nhà đất 19B Phan Đình Phùng do bà Nguyễn Quỳnh Dung đang quản lý, sử dụng. Đây là tài sản được bên vay và bên cho vay thỏa thuận đảm bảo cho khoản vay tại Hợp đồng vay tiền. Theo lời khai của nguyên đơn thì do không thanh toán được khoản nợ nên bị đơn tự nguyện bàn giao nhà cho nguyên đơn để đối trừ khoản vay. Phía bị đơn thì cho rằng nguyên đơn đã đe dọa, uy hiếp để chiếm giữ nhà đất nhưng không đưa ra được tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho lời khai của mình.

HĐXX cũng nhận định tài sản đảm bảo cho khoản vay không được thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm đúng theo quy định pháp luật, nên ngoài Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất đứng tên bà Nguyễn Thị Kim Thanh là văn bản pháp lý cao nhất chứng minh quyền sở hữu của bà Thanh ra thì không có tài liệu nào thể hiện căn cứ xác lập quyền sở hữu của nguyên đơn.

Vì vậy, quyền sở hữu nhà đất tại 19B Phan Đình Phùng được xác định là tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân và thuộc quyền sở hữu hợp pháp của vợ chồng bà Thanh, ông Tâm.

Tuy nhiên, theo thỏa thuận vay tiền tại Điều 4.4 của Hợp đồng vay tiền giữa vợ chồng bà Thanh, ông Tâm với vợ chồng ông Phương, bà Tuyết: Bên A cam đoan trả lại Giấy tờ nhà đất sau khi Bên B trả toàn bộ số tiền nói trên, kể cả lãi (nếu có).

Như vậy, căn cứ theo thỏa thuận giữa hai bên thì cần buộc nguyên đơn và những người đang sinh sống tại nhà đất 19B Phan Đình Phùng (bà Nguyễn Thị Tuyết, Nguyễn Quỳnh Dung, Nguyễn Minh Phượng và Nguyễn Quang Huy) phải trả lại nhà đất cùng giấy tờ bản gốc Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất ở đứng tên bà Thanh cho bị đơn ngay sau khi bị đơn hoàn thành đầy đủ nghĩa vụ trả nợ cho nguyên đơn.

Bản án sơ thẩm của Tòa cũng bác yêu cầu phản tố của bị đơn về việc buộc nguyên đơn bồi thường thiệt hại do hành vi chiếm giữ, sử dụng trái phép nhà đất 19B Phan Đình Phùng và giành quyền khởi kiện cho ông Ngô Huy Tâm, Ngô Đức Trung và bà Ngô Thị Lan Phương trong một vụ án khác nếu có yêu cầu và tài liệu chứng minh...

Bản án sơ thẩm của TAND quận Ba Đình sau đó đã bị ông Ngô Đức Trung kháng cáo toàn bộ.

Trước đó, tháng 8 và 9-2021, Báo CCB Việt Nam từng có bài viết phản ánh liên quan đến vụ tranh chấp hợp đồng vay tài sản được ký kết giữa vợ chồng ông Văn Hồng Phương, bà Nguyễn Thị Tuyết và vợ chồng ông Ngô Huy Tâm, bà Nguyễn Thị Kim Thanh. Nội dung bài báo phản ánh khách quan về diễn biến việc vay tiền và các tình tiết liên quan đến việc thực hiện hợp đồng vay tài sản giữa hai bên như phiên tòa sơ thẩm TAND quận Ba Đình xét xử vừa qua.

Đáng chú ý, nghiên cứu bản án còn có những tình tiết trong vụ án vẫn chưa được thấy HĐXX làm rõ, mà chỉ thấy HĐXX căn cứ vào lời khai hai bên; các nhân chứng liên quan như lời tố, trình bày từ phía gia đình ông Ngô Huy Tâm trước đây không thấy được làm rõ, thể hiện tại bản án về hành vi gia đình bà Tuyết, ông Phương dọn đến ở tại căn nhà 19B Phan Đình Phùng (mà Báo CCB Việt Nam đã phản ánh) như thế nào? Trong khi HĐXX nhận định, đến thời điểm đưa vụ án ra xét xử tài sản nhà đất này về mặt pháp lý vẫn đứng tên bà Nguyễn Thị Kim Thanh!

Được biết, trước khi TAND quận Ba Đình đưa vụ án ra xét xử, ngày 12-6-2023, ông Ngô Đức Trung có đơn gửi Chánh án TAND quận Ba Đình đề nghị tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” nêu trên. Lý do ông Trung đề nghị là bởi ngày 17-5-2023, Công an quận Ba Đình có Quyết định số 31, phục hồi điều tra tin báo tội phạm về việc chiếm giữ nhà đất 19B Phan Đình Phùng do TAND quận Ba Đình chuyển sang. Công an quận sau đó cũng có Thông báo số 49 gửi cho Tòa án và VKS quận Ba Đình biết vụ việc phục hồi điều tra. Tuy nhiên, phiên tòa sau đó vẫn diễn ra như nêu trên…

BBĐ