Trung tướng Phạm Hồng Cư
Chiến dịch Tây Nguyên toàn thắng. Không khí cơ quan Bộ Tổng tư lệnh sôi nổi hẳn lên. Mọi người rất vui mừng thấy cuộc tiến công chiến lược phát triển nhanh hơn dự kiến.
Chiến dịch Tây Nguyên toàn thắng đã tạo ra một bước phát triển đột biến trong tình hình chiến cuộc. Thời cơ chiến lược xuất hiện.
Ngày 18-3-1975, Bộ Chính trị và Quân ủy T.Ư họp, hạ quyết tâm “Khẩn trương chuyển hẳn sang phương án thời cơ, chuyển cuộc tiến công chiến lược thành Tổng tiến công chiến lược, hoàn thành kế hoạch hai năm (1975-1976) ngay trong năm 1975”,
Đây là một quyết tâm rất lớn, rất kịp thời, phát hiện thời cơ chiến lược, nắm bắt thời cơ để chuyển biến cục diện chiến tranh.
Thượng tướng Song Hào - Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị gọi tôi đến giao nhiệm vụ: “Cử đồng chí làm phái viên của Tổng cục Chính trị theo dõi mặt trận Huế-Đà Nẵng. Đồng chí lên đường ngay. Huy động lực lượng báo chí, văn nghệ trong và ngoài quân đội bám sát mặt trận. Giải phóng đến đâu phải có tin, bài, phim, ảnh đến đó. Các đoàn văn công quân đội sẵn sàng tiến vào vùng giải phóng”. Đồng chí Song Hào, nguyên là Chính ủy Đại đoàn Quân Tiên phong 308 khi tiếp quản Thủ đô Hà Nội đã nhắc nhở tôi kinh nghiệm ngày giải phóng Thủ đô năm 1954.
Trước đó, Điện ảnh Quân đội đã cử một bộ phận quay phim bám sát Sư đoàn 316, đã quay được những hình ảnh sinh động quân ta đánh chiếm sở chỉ huy Sư đoàn 23 ngụy và các mục tiêu khác trong thị xã Buôn Ma Thuột.
Tôi huy động các lực lượng báo chí, văn nghệ ra trận rồi lên đường ngay. Nhưng tôi đến chậm. Đường Hồ Chí Minh nườm nượp những đoàn xe chở quân của Quân đoàn 1 được lệnh lên đường chiến đấu. Vinh dự được vào chiến trường vào thời điểm lịch sử, nét mặt các chiến sĩ tươi rói. Xe tôi bị kẹt, tôi phải bỏ xe, dùng mọi phương tiện kể cả xe lam của đồng bào vùng mới giải phóng để đến được Đà Nẵng một ngày sau khi thành phố được giải phóng. Tôi gặp đồng chí Lê Linh, Chính ủy Quân đoàn 2. Chúng tôi ôm nhau giữa Đà Nẵng giải phóng, trong lòng xiết bao vui sướng. Lê Linh với tôi là bạn thân từ trong kháng chiến chống Pháp, khi ấy Lê Linh là Chính ủy Trung đoàn 36, Đại đoàn 308 mà tôi là Phó chính ủy. Lê Linh hồ hởi kể chuyện: “Từ ngày 19-3, quân ta đã giải phóng thị xã và toàn bộ tỉnh Quảng Trị. Quân khu Trị Thiên và Quân đoàn 2 được lệnh gấp rút đưa quân xuống đồng bằng, nhanh chóng cắt đứt đường số 1 không cho địch rút về co cụm ở Đà Nẵng. Quân ta khẩn trương đánh chặn, chia cắt đội hình địch, đánh tan Sư đoàn 1 ngụy, giải phóng hoàn toàn Trị Thiên-Huế. Ta chiếm lĩnh đèo Hải Vân, bịt cửa Thuận An không cho địch rút chạy. Pháo tầm xa của ta bắn phá sân bay Phú Bài. Hàng chục ngàn quân ngụy cùng với hàng trăm xe tăng, xe bọc thép bị ta tiêu diệt và bắt sống. Cảnh thảm hại trên đường số 7 ở Tây Nguyên lại diễn ra trên đường từ Huế xuống Cửa Thuận An. Quân ta tiến vào TP Huế, phối hợp với quần chúng nổi dậy giải phóng hoàn toàn cố đô Huế ngày 26-3. Lá cờ cách mạng nửa đỏ nửa xanh với ngôi sao vàng năm cánh được kéo lên đỉnh cột cờ trước Ngọ Môn”.
Đồng chí Lê Linh nói tiếp: “Quân đoàn 2 được lệnh nhanh chóng tiến vào giải phóng Đà Nẵng. Mặt trận Quảng Đà được thành lập do đồng chí Lê Trọng Tấn làm Tư lệnh, đồng chí Chu Huy Mân làm Chính ủy. Tình hình chuyển biến rất nhanh, Tư lệnh và Chính ủy mặt trận Quảng Đà chỉ làm việc với nhau bằng điện đài, không kịp họp gì cả”.
Đồng chí Lê Linh khái quát diễn biến ta đánh vào Đà Nẵng; Quân đoàn 2, Quân khu 5 kết hợp quần chúng nổi dậy giải phóng hoàn toàn TP Đà Nẵng trong ngày 29-3; rổi nói tiếp: “Chiến dịch Huế-Đà Nẵng do Bộ Tổng tư lệnh trực tiếp chỉ huy. Anh Văn (Đại tướng Võ Nguyên Giáp) đôn đốc ráo riết. Thời gian là lực lượng. Chỉ trong một thời gian ngắn kỷ lục có 3 ngày mà ta đã tiêu diệt và làm tan rã hơn 10 vạn quân địch, giải phóng tỉnh Quảng Đà, đặc biệt là căn cứ quân sự Đà Nẵng, căn cứ liên hợp lớn nhất và quan trọng nhất của địch ở miền Nam Việt Nam. Anh Văn gửi điện khen cả hai cánh quân: cánh Quân đoàn 2 phía Bắc do Nguyễn Hữu An, Lê Linh, Hoàng Đan chỉ huy và cánh quân phía Nam: Sư đoàn 2 (Quân khu 5) do Nguyễn Chơn làm Sư đoàn trưởng.
Ngày hôm sau, tôi nhận được lệnh của Tổng cục Chính trị đón đồng chí Lê Quang Hòa - Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị vào Đà Nẵng để cùng với đồng chí Lê Trọng Tấn - Phó tổng tham mưu trưởng thành lập cánh quân Duyên Hải có nhiệm vụ tiến theo đường số 1 vào tham gia mặt trận Sài Gòn.
Ngày 7-4-1975, tại TP Đà Nẵng mới giải phóng, tôi nhận được bức điện của Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp với nội dung: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ từng giờ, từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng”. Mệnh lệnh ấy như một lời hịch của non sông đất nước.
Được cử làm phái viên của Tổng cục Chính trị theo sát cánh quân Duyên Hải. Tôi giúp đồng chí Lê Quang Hòa truyền đạt tức khắc mệnh lệnh của Đại tướng đến khắp các đơn vị thuộc cánh quân Duyên Hải, truyền đạt đến tận đảng viên, chiến sĩ.
Cánh quân Duyên Hải mới thành lập, không nằm trong dự kiến từ trước, gồm lực lượng Quân đoàn 2 vừa giải phóng Đà Nẵng, Sư đoàn 3 Sao Vàng thuộc Quân khu 5, các đơn vị pháo binh, cao xạ, xe tăng, công binh, có nhiệm vụ đánh địch trong hành tiến, khẩn trương hành quân để đến kịp thời gian cùng các đơn vị bạn tham gia giải phóng Sài Gòn. Đồng chí Lê Trọng Tấn là Tư lệnh, đồng chí Lê Quang Hòa là Bí thư Ban cán sự Đảng lâm thời.
Cánh quân Duyên Hải hồ hởi lên đường như được chắp cánh bay. Nhưng mới ra khỏi Đà Nẵng chúng tôi đã gặp trở ngại đầu tiên: Cầu Câu Lâu bắc qua sông Thu Bồn bị địch phá sập hai nhịp, công binh khắc phục bắc cầu tạm cho các đơn vị nhẹ đi trước, triển khai một bến phà quân sự để chở loại xe trọng tải lớn. Cứ như vậy thì quá chậm. Một người dân vùng mới giải phóng cho biết phía thượng lưu cách cầu Câu Lâu khoảng hơn 10km, có một cây cầu, thế là cả đoàn xe tăng rầm rập cơ động dọc theo bờ sông Thu Bồn, cố gắng bù lại thời gian đã mất.
Dọc đường qua các tỉnh miền Trung mới giải phóng, đông đảo đồng bào ra đứng hai bên đường hoan hô bộ đội. Tôi gặp một tốp phụ nữ đứng bên đường vẫy tay rối rít, hỏi ra thì trong tốp phụ nữ này, có mấy chị chờ chồng đã 20 năm nay, thấy bộ đội giải phóng về, vội chạy ra đón, hi vọng được thấy các anh ấy trở về.
Ngày 10-4, đến Phan Rang, cánh quân Duyên Hải gặp tuyến phòng thủ từ xa của địch. Chúng tôi còn cách Sài Gòn 350km. Tại đây có 2 hải cảng Tân Thành và Ninh Chữ, có sân bay Thành Sơn với lực lượng bộ binh và một sư đoàn không quân ngụy. Sáng 14-4, quân ta nổ súng đánh Phan Rang. Quân địch được phi pháo yểm hộ, dựa vào hệ thống công sự và địa hình có lợi, ngoan cố chống cự. Sáng 16-4, Tư lệnh Quân đoàn 2 Nguyễn Hữu An tổ chức một đội hình thọc sâu gồm xe tăng, thiết giáp đánh thẳng theo đường số 1, chiếm thị xã Phan Rang, chiếm 2 cảng Tân Thành và Ninh Chữ, đồng thời theo đường 11 đánh ngược lên, vu hồi vào sườn phía tây của địch, chiếm sân bay Thành Sơn, thu 40 máy bay còn nguyên vẹn (sau này dùng để tổ chức phi đội Quyết thắng ném bom sân bay Tân Sơn Nhất chiều 28-4). Tối 16-4, tôi và đồng chí Đào Huy Vũ - phái viên của Bộ Tổng tham mưu có mặt ở sân bay Thành Sơn lúc quân ta bắt sống trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi và chuẩn tướng không quân Phạm Ngọc Sang.
Thừa thắng, bộ binh và xe tăng của Quân đoàn 2 tiến đánh thị xã Phan Thiết.
Sáng 20-4, chúng tôi đến Xuân Lộc. Anh Lê Trọng Tấn và anh Lê Quang Hòa nhanh chóng bắt liên lạc với Bộ chỉ huy Mặt trận Sài Gòn. Cánh quân Duyên Hải trở thành cánh quân phía Đông trực thuộc Bộ chỉ huy Mặt trận Sài Gòn.
Cuộc tiến quân thần tốc của cánh quân Duyên Hải với hơn 32.000 quân và 2.276 xe, pháo, tăng thiết giáp qua một chặng đường gần 1.000km, đánh địch trong hành tiến là một đòn chiến lược sáng tạo, kịp thời, đánh thông tuyến đường số 1 từ Bắc vào Nam đến tận cửa ngõ phía Đông Sài Gòn, tăng thêm lực lượng cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng.
Đến Xuân Lộc, tôi được biết là từ ngày 9-4, Quân đoàn 4 do Tư lệnh Hoàng Cầm và Chính ủy Hoàng Thế Thiện chỉ huy đã mở cuộc tiến công vào “cánh cửa thép” trên tuyến phòng ngự phía Đông của địch ở Sài Gòn. Nơi đây địch bố trí một lực lượng khá mạnh gồm Sư đoàn 18 ngụy và một số đơn vị bảo an, cảnh sát, phòng ngự trong công sự kiên cố. Lê Minh Đảo, Tư lệnh sư đoàn ngụy tuyên bố “tử thủ”. Trận đánh đã diễn ra phức tạp. Địch tăng viện thêm quân và dùng đến cả loại bom CBU có sức hủy diệt lớn. Anh Lê Trọng Tấn quyết định tăng cường cho Quân đoàn 4 Trung đoàn 95B (Sư đoàn 325) và pháo đạn đủ để tiến công dứt điểm Xuân Lộc. Ngày 20-4, địch rút chạy khỏi Xuân Lộc. “Cánh cửa thép” phía Đông Sài Gòn đã bị mở toang.
Anh Lê Quang Hòa về Bộ chỉ huy Chiến dịch Sài Gòn-Gia Định. Anh cho tôi biết: Bộ Chính trị đã thành lập Bộ Chỉ huy chiến dịch. Anh Văn Tiến Dũng là Tư lệnh, anh Phạm Hùng là Chính ủy, các anh Trần Văn Trà, Lê Trọng Tấn, Lê Đức Anh, Đinh Đức Thiện là Phó tư lệnh, anh Lê Quang Hòa là Phó chính ủy kiêm Chủ nhiệm chính trị, anh Lê Ngọc Hiền là Tham mưu trưởng.
Thể theo đề nghị của Bộ chỉ huy chiến dịch, Bộ Chính trị đã đồng ý đặt tên chiến dịch giải phóng Sài Gòn-Gia Định là Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Nghe phổ biến điều này, tôi vô cùng cảm động và rất vinh dự tự hào được tham gia trận quyết chiến chiến lược cuối cùng mang tên vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Tôi thầm nghĩ: Như vậy là “Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân” tới ngày toaòoàn thắng.
Hạ tuần tháng 4-1975, các lực lượng lớn của quân ta tham gia chiến dịch đã vào vị trí triển khai: Ở hướng bắc, Quân đoàn 1 từ miền Bắc vào đã có mặt ở khu vực nam Sông Bé. Ở hướng tây bắc, Quân đoàn 3 gồm các lực lượng từ Tây Nguyên vào đã đến Dầu Tiếng. Ở hướng tây và nam, Đoàn 232 tương đương một quân đoàn do đồng chí Lê Đức Anh, Phó tư lệnh Bộ Chỉ huy chiến dịch trực tiếp chỉ huy đã áp sát đường số 4, Mỹ Tho. Ở hướng đông, Quân đoàn 4 sau khi giải phóng Xuân Lộc áp sát Trảng Bom. Quân đoàn 2, Sư đoàn 3 (Quân khu 5) đã áp sát Long Thành, Nước Trong, Bà Rịa-Vũng Tàu. Đồng chí Lê Trọng Tấn, Tư lệnh cánh quân Duyên Hải nay là Phó tư lệnh chiến dịch chỉ huy hướng này.
Tại Sài Gòn, các lực lượng biệt động, đặc công, các lực lượng của Thành đội Sài Gòn đã đứng sẵn ở vùng ven và nội đô, chuẩn bị phát động quần chúng nổi dậy khi chủ lực tiến công. Đồng chí Nguyễn Văn Linh - Phó Bí thư T.Ư Cục, và đồng chí Võ Văn Kiệt - Ủy viên Thường vụ T.Ư Cục, đặc trách phong trào nổi dậy của quần chúng.
Thế trận đã bày xong. Năm mục tiêu quan trọng đã được xác định: Dinh Tổng thống ngụy quyền, Bộ Tổng tham mưu quân ngụy, sân bay Tân Sơn Nhất, Biệt khu Thủ đô và Nha Cảnh sát.
Giờ phút quyết định đã điểm.
Tôi đi theo cánh quân hướng Đông do đồng chí Lê Trọng Tấn chỉ huy. Cánh quân này tiến công căn cứ Nước Trong, chi khu quân sự Long Thành và thị xã Bà Rịa. Ở Nước Trong, địch chống cự, dùng máy bay bắn phá và phản kích suốt cả ngày, Sư đoàn 304 tổ chức nhiều đợt tấn công nhưng chưa dứt điểm. Anh Lê Trọng Tấn đôn đốc việc đánh chiếm căn cứ Nước Trong và nhất là việc triển khai trận địa pháo tầm xa ở Nhơn Trạch để bắn vào căn cứ không quân Tân Sơn Nhất.
Tối 28-4, tôi nghe đài phương Tây đưa tin: “Hồi 16 giờ 40, 5 chiếc máy bay A37 do Mỹ chế tạo đã dội bom xuống sân bay Tân Sơn Nhất”. Đó là phi đội Quyết thắng do phi công Nguyễn Thành Trung - người của ta hoạt động trong hàng ngũ địch, trước đó đã ném bom dinh Tổng thống ngụy quyền và bay ra vùng giải phóng, nay huấn luyện các phi công ta sử dụng máy bay A37 của Mỹ ném bom vào sân bay Tân Sơn Nhất. Cuộc ném bom bất ngờ của Không quân Việt Nam đạt hiệu quả lớn về phá hủy máy bay và sân bay địch, nhưng hiệu quả tâm lý đối với quân ngụy còn lớn hơn nhiều.
Theo kế hoạch của Bộ Chỉ huy chiến dịch, 5 giờ 30 phút ngày 30-4, các hướng đồng loạt đánh vào Sài Gòn. Riêng cánh quân phía Đông, đồng chí Lê Trọng Tấn đề nghị cho nổ súng sớm từ 18 giờ ngày 29-4. Lý do là cánh quân phía Đông phải vượt qua sông Đồng Nai và sông Sài Gòn, nếu cùng nổ súng sẽ đến không kịp. Bộ Tổng tư lệnh và Bộ Chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh đồng ý để cánh quân phía Đông nổ súng sớm hơn kế hoạch. Như vậy trên thực tế, từ 18 giờ ngày 29-4-1975, trận tiến công Sài Gòn, Gia Định đã bắt đầu.
Sáng 30-4, lực lượng đột kích thọc sâu của Quân đoàn 2 trong cánh quân phía Đông do đồng chí Lê Trọng Tấn chỉ huy vượt cầu Xa lộ trên sông Đồng Nai, diệt ổ đề kháng của địch ở Thủ Đức phía bắc cầu Rạch Chiếc. Trận địa pháo tầm xa của ta đặt ở Nhơn Trạch đã bắn mấy trăm viên đạn vào sân bay Tân Sơn Nhất.
Lữ đoàn xe tăng 203 của Quân đoàn 2 vượt qua cầu Sài Gòn đến ngã tư thứ bảy thì rẽ trái đánh thẳng vào Dinh Độc lập. Xe tăng 843 dẫn đầu húc vào cổng phụ không qua được phải dừng lại. Xe tăng 390 vượt lên húc đổ cổng chính của Dinh Độc lập. Đại đội trưởng Đại đội 4 xe tăng Bùi Quang Thận từ trên xe 843 cầm cờ Giải phóng lên cắm cờ trên nóc Dinh Độc lập lúc 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975.
Chính ủy Lữ đoàn xe tăng 203 Bùi Văn Tùng cùng với Trung đoàn phó Trung đoàn bộ binh 66 Phạm Xuân Thệ đưa Tổng thống Dương Văn Minh ra Đài phát thanh, cùng thảo lời đầu hàng của Dương Văn Minh. Nhà báo người Đức Boris Gallasch cho mượn chiếc cát xét thu lời đầu hàng của Dương Văn Minh và lời của Chính ủy Bùi Văn Tùng, đại diện Quân giải phóng chấp nhận sự đầu hàng, phát trên làn sóng Đài phát thanh Sài Gòn lúc 14 giờ ngày 30-4.
Cho đến nay, bao năm tháng đã trôi qua, nhưng tôi không thể nào quên cảm xúc đã đến với tôi trong ngày lịch sử ấy khi tôi cùng với Lê Linh bước vào thềm Dinh Độc lập. Vui mừng khôn xiết, bỗng dưng hai mắt lệ nhòa.
Tôi quay lại thì thấy Lê Linh cũng đang lau nước mắt. Lê Linh kiểm tra công tác của Lữ đoàn 203 xe tăng và Trung đoàn 66 bộ binh. Còn tôi thì ra ngay Đài phát thanh lấy một bản sao băng ghi âm lời đầu hàng của Dương Văn Minh. Mấy ngày sau, nhân có chuyến máy bay đầu tiên của ta hạ cánh xuống sân bay Tân Sơn Nhất, tôi chia tay với Sài Gòn giải phóng và lên máy bay ra Thủ đô Hà Nội, về cơ quan Tổng cục Chính trị báo cáo với Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Song Hào, kết thúc đợt công tác làm phái viên mặt trận trong mùa Xuân 1975 toàn thắng.
P.H.C