Ông chậm rãi kể: "Những ngày tháng 3 ấy, phối hợp với chiến trường Tây Nguyên và Quảng Nam, Mặt trận 4 Quảng Đà liên tục tiến công, tiêu diệt một số cứ điểm quan trọng của địch như đánh đồn Ngũ Giáp (Điện Bàn), cắt đường giao thông, bắn hàng trăm tên lửa tầm ngắn vào sân bay Đà Nẵng, trên đường Hải Vân, uy hiếp mạnh và làm rối loạn tinh thần của quân địch. Ban đầu, trên giao Mặt trận 4 giải phóng vùng đông Duy Xuyên, giữ vững vùng B Điện Bàn, song tình hình chiến sự diễn biến quá nhanh. Đặc khu uỷ Quảng Đà nhanh chóng có chủ trương "huyện giải phóng huyện, xã giải phóng xã" để dồn binh lực cho trận chiến giải phóng Đà Nẵng. Bây giờ ngẫm nghĩ lại, tôi thấy chủ trương này vừa nhanh chóng, vừa kịp thời, sáng suốt.
Lúc này Đặc khu uỷ Đà Nẵng có chủ trương yêu cầu: đánh nhanh, chia cắt, không cho địch co cụm hoặc chạy về hướng Nam hạn chế tổn thất cho dân và bảo đảm cho thành phố nguyên vẹn. Hai trung đoàn 96, 97 và các đơn vị trực thuộc Mặt trận 4 Quảng Đà phối hợp nhịp nhàng cùng các đơn vị của Bộ và Quân khu như Sư đoàn 304, Quân đoàn 2, Sư đoàn 2 tiến công liên tục, toàn diện, trên tất cả các hướng vào Đà Nẵng, cùng lúc quần chúng nổi dậy và 15 giờ ngày 29-3-1975 Đà Nẵng được giải phóng. Ngày 30-3 ra mắt UB quân quản TP Đà Nẵng, tôi được cử làm Chủ tịch Uỷ ban quân quản 1 (bây giờ là quận Hải Châu).
Giờ phút có mặt tại Đà Nẵng ngày 29-3 cũng như ngày 30-4 tôi vui mừng đến phát khóc. Vui đó, nhưng không khỏi bùi ngùi nghĩ lại biết bao đồng bào, chiến sĩ, trong đó có đồng đội tôi, gia đình tôi, không còn trên đời này để thấy được đất nước thống nhất và cuộc sống thanh bình hôm nay. Bây giờ tôi già rồi, chỉ mong sao khi đất nước ta phát triển, đời sống người dân ngày càng khá hơn, nhưng mãi mãi không quên quá khứ, không quên sự cống hiến, hy sinh của đồng bào ta. Một giây phút lãng quên, thờ ơ với quá khứ là có tội với lịch sử. Mong sao Đảng và nhân dân cố gắng chăm lo tốt hơn nữa các bà mẹ VNAH, các đối tượng, gia đình chính sách để phần nào an ủi sự mất mát, hy sinh to lớn của họ cho hạnh phúc của chúng ta hôm nay".
Đại tá LÊ CÔNG THẠNH kể
NGUYỄN PHÁT ghi