Mùa thu năm 1969, đơn vị chúng tôi được chuyển về khu vực II bám lộ giao thông số 7, chặn đánh bọn địch mở đường, bọn xe cơ giới chở quân đi chi viện cho chiến trường. Chỉ huy phân công ba người, gồm đồng chí Trần Văn Đẹp, đồng chí Năm Nghĩa và tôi. Nhiệm vụ là bám lại khu vực này cách lộ số 7 không đầy 1 cây số. Mỗi khi điều nghiên nắm tình hình về, đến giờ đi ngủ, để tránh bọn biệt kích chúng tôi phải chui vào rừng ô rô, cóc kèn lót rơm, rồi trải vải nhựa lên hoặc khi có xuồng thì neo xuồng vào những con xẻo hẻo lánh mà ngủ. Vài hôm phải đổi điểm một lần, để tránh thành quy luật và sự theo dõi của bọn thám báo. Hai tuần sau, chúng tôi được lệnh chuyển bộc phá từ Ban quân khí kho hậu cần Thị đội về vùng này. Mỗi lần chuyển 4 quả, mỗi quả 15kg. Đường đi lầy lội, qua nhiều bưng rạch, chuyển đường bộ không nổi, chúng tôi phải mượn chiếc xuồng của dân chở bằng đường sông. Con sông chiều ngang chỉ hơn 200 mét, phía bên kia bọn lính làng, đồn bót; phía bên này vườn hoang, nhà dân thưa thớt. Bọn thám báo địch thường tổ chức theo dõi, có lần chúng đánh biệt kích giết chết dân thường và du kích nơi đây rồi dã man mổ bụng moi gan lấy mật.
Khó khăn, gian khổ, hiểm nguy nhưng chúng tôi đã vượt qua và hoàn thành nhiệm vụ, bởi mỗi chúng tôi đều thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ: “Không có gì quý hơn độc lập tự do! Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ!”.
Trời mờ tối, chúng tôi giấu chiếc xuồng gần đó rồi men theo con rạch nhỏ, trầm mình dưới nước ngập đến cổ, đỉa đeo đến cằm. Đầu đội quả mìn nặng gần 15kg đến chỗ sâu dù uống nước ừng ực nhưng vẫn cố chịu, không để cho mìn ướt khi vào trận đánh địch không kết quả. Từng đoạn, rồi từng đoạn, thỉnh thoảng nhô lên ẩn nấp theo địa hình thuận lợi của mấy bụi ô rô để quan sát trên lộ phòng khi địch phục kích. Từ “ngã ba bụi lách” đến lộ hơn bốn trăm mét, qua mấy đoạn đường gian nan, rồi chúng tôi cũng bám đến lộ. Hai đồng chí cảnh giới hai đầu, còn tôi chọn vị trí đặt mìn, dụng cụ là một con dao, dùng dao rạch trên mặt đất rồi đưa vào vải nhựa một lớp đất mặt, nếu cặp theo mé lộ nơi nào có cỏ thì phải bứng cỏ cho khéo, khui từng viên sỏi đá, để theo thứ tự không để rơi vãi một vật nhỏ nào, rồi để mìn xuống ngụy trang lại thật kỹ giống y như hiện trạng ban đầu, không để lộ một dấu vết nào. Hơn hai giờ đồng hồ mới xong phần quả mìn, rồi tiếp tục căng dây điện, rạch mặt đất, nhét dây điện xuống ngụy trang lại suốt đường dài hơn 200 mét đến con rạch ngang là đến điểm quy định. Lúc này, trời đã hừng đông, chúng tôi dùng vải nhựa cuộn tròn lại đè lên những cây ô rô gai góc rồi lần từng bước vào giữa đám cây bần cao chừng 4 mét, dây cốc kèn leo um tùm. Tôi leo lên cây bần quan sát địch, mục tiêu vật chuẩn rất rõ, khi xe địch đến là điểm hỏa chính xác.
Đã hơn 8 giờ sáng mà chưa có chiếc xe nào của địch chạy ngang. út Đẹp sốt ruột nói:
- Chắc tại mình đánh hoài nên nó hết dám chạy; ngồi dưới gốc bần này hoài buồn ngủ quá. à, phải rồi mình hái hoa ô rô chơi!
Vừa lẩm bẩm trong miệng út Đẹp vừa hái hoa ô rô rồi kết vào những tau nhỏ của sợi dây điện trong lố pin để đánh mìn còn thừa lại mà tôi vừa quăng xuống lúc này. Kết xong vòng hoa ô rô như một vòng nguyệt quế, út Đẹp đưa lên hỏi:
- Ê, ông nhìn xem có đẹp không? Tặng ông nè, vòng hoa chiến thắng đó! Hì... hì... !
Tôi nhìn vòng hoa cảm thấy lòng vui cùng nụ cười của út Đẹp.
- Đẹp, đẹp lắm! Cảm ơn ông có lòng tặng, nhưng thôi mình không dám nhận đâu. Ông đem về mà tặng cho Thùy Dương, người yêu của ông đi!
Thùy Dương là người con gái xinh đẹp cùng làng với chúng tôi. Thùy Dương ở nhà cũng tham gia vào đội quân tóc dài, nữ du kích xã chống địch hành quân đốt xóm, phá làng.
Đang nghĩ miên man thì từ hướng Trà Vinh, xe địch chạy đến, tôi bảo út Đẹp chuẩn bị và út Đẹp gọi Năm Nghĩa đang lên cơn sốt nằm đắp vải nhựa từ hừng đông đến giờ cũng bật ngồi dậy. Tôi đang chăm chú theo dõi mục tiêu đang di chuyển đến vật chuẩn liền điểm hỏa. Quả mìn nổ làm chiếc xe GMC lật nhào, bọn địch trên xe đều đền tội. út Đẹp reo lên:
- Trúng rồi, trúng rồi. Ơ... !
Tiếng kêu của út Đẹp bỗng dưng lạc giọng rồi tắc nghẽn, trên tay anh còn cầm vòng hoa ô rô cố gượng đưa lên nhìn vào mắt tôi như muốn nói điều gì mà chẳng thành lời. Rồi anh trút hơi thở cuối cùng! Do mấy chiếc xe còn lại của bọn địch bắn vào, vết đạn bên ngực trái của út Đẹp còn ướt đẫm máu tươi.
Tôi và Năm Nghĩa trào nước mắt, cổ họng khô đắng cùng nhau đưa út Đẹp về phía sau, lên chiếc xuồng ngụy trang cùng với vòng hoa ô rô, một loài hoa rừng toàn là gai, sống ở miền sông nước mà út Đẹp vô cùng yêu thích.
Mất út Đẹp, nỗi đau trong lòng chúng tôi không nguôi. Mặc dù không được bổ sung thêm, quân số chỉ còn có hai người nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục bám địa bàn đánh địch. Mà lúc nào chúng tôi cũng có cảm giác như có anh cùng vào trận. Chỉ trong 29 ngày đêm, chúng tôi đánh 17 quả mìn, loại khỏi vòng chiến đấu 53 tên địch, có 2 cấp uý và 1 cấp tá, phá huỷ 3 xe quân sự. Qua đợt này chúng tôi được bình chọn Chiến sĩ thi đua và được Ban chỉ huy Thị đội khen thưởng. Tôi như thấy út Đẹp cùng vui và đang nở nụ cười.
Thời gian trôi qua mấy mươi năm, nhưng cứ mỗi năm, đến ngày 27-7, tôi lại đến nghĩa trang thăm út Đẹp, thắp cho anh nén hương. Lần nào cũng vậy, tôi mang theo một giỏ hoa đặt lên mộ anh... trong đó có mấy cành hoa ô rô.
Huỳnh Văn Viết