Mùa khô năm 1969, Đại đội 1, Tiểu đoàn 23 công binh làm nhiện vụ bảo đảm giao thông trên tuyến đường QA6 ở tây Trường Sơn.

Vào một đêm giữa mùa, 7 chiến sĩ Tiểu đội 2 vừa đi khắc phục sự cố ở cây số 3 về, mọi người mệt nhoài vì vừa làm việc nặng lại còn phải đi bộ hơn 6km. Căn hầm trực chiến ở cây số 6 mỗi khi chiều về đầy ắp tiếng cười, tiếng nói. Còn bây giờ thì khác hẳn, chẳng ai muốn nói với ai; các chiến sĩ ai cũng muốn được nghỉ ngơi chút ít và muốn chợp mắt vài chục phút đồng hồ.

Chưa ai kịp chợp mắt thì vài phút sau ở phía ngoài vọng lại 3 phát súng và 3 phát súng nữa (tín hiệu báo tắc đường). Lập tức, cả tiểu đội bật dậy; các chiến sĩ mang súng, đạn, lựu đạn, thủ pháo, dao tông, vác cuốc xẻng nhanh chóng chạy về hướng tiếng súng. Chúng tôi chạy bộ gần 2km, đến cây số 7 + 700, có một chiếc cầu gỗ bắc qua một con suối nhỏ. Dưới ánh trăng lờ mờ, chúng tôi thấy một chiếc xe phía sau rệ xuống, phía đầu vểnh lên, xe quay ngang chắn gần hết lối lên cầu. Xung quanh, mấy đồng chí lái xe đi đi lại lại, vẻ nóng ruột. Thấy chúng tôi đến, các anh mừng lắm. Đồng chí chỉ huy đoàn xe khẩn khoản:

- Đề nghị các đồng chí giải phóng đường thật nhanh. Vì ở phía sau còn cả một đoàn xe đang chờ đợi, nếu đỗ ở đây lâu, nguy hiểm lắm...

Tiểu đội trưởng Thịnh của chúng tôi lúc thì ở đầu xe, lúc lại vòng ra sau xe để quan sát, rồi thống nhất với đồng chí chỉ huy đoàn xe: cho một chiếc xe có phương tiện tiến lên kéo chiếc xe bị nạn. Sau khi mắc tời cáp xong, chiếc xe nổ máy kéo, nhưng chiếc xe được kéo không hề nhúc nhích. Cả Tiểu đội 2 lên xe bốc bớt số gạo xuống đường. Gần nửa số gạo trên xe đã được bốc xuống vậy mà kéo lần thứ 2, chiếc xe cũng chỉ cử động chút ít rồi lại nằm ì ra đấy. Lúc này có ý kiến đề nghị:

- Dùng bộc phá nổ tung chiếc xe xuống suối, thà hy sinh 1 xe để cứu cả đoàn xe vẫn hơn.

Ý kiến ấy nghe ra cũng khả thi và chính Tiểu đội 2 này đã có lần này đã có lần thực hiện phương án “thí xe để thắng cờ”. Nhưng lần này chưa đến mức độ như vậy. Tiểu đội trưởng Thịnh đắn đo và quyết định: Cả tiểu đội lên xe, bốc toàn bộ số gạo trên xe xuống đường. Mọi người răm rắp làm việc, chỉ một lúc số gạo đã được chuyển xuống hết.

Lần thứ 3, chiếc xe kéo lại hoạt động. Lần này chiếc xe được kéo ngoan ngoãn bò theo chiếc xe kéo, đến một đoạn đường rộng mới cho chiếc xe ấy đứng hẳn ra lề đường.

Vấn đề nảy sinh lúc này là: Nơi chiếc xe vừa được kéo đi để lại 1 cái hố sâu hoắm, nếu không khắc phục không có xe nào có thể vượt qua. Cả Tiểu đội 2 lại cùng nhau chuyển số gỗ rong đanh đã chuẩn bị trước đó mấy ngày để ở gần cầu đem đến lát xuống hố sâu thành nhiều lớp. Lát được nửa chừng lại hết rong đanh; Tiểu dội trưởng Thịnh quyết định lấy số gạo vừa bốc ở trên xe xuống lát lên trên rong đanh tạo ra một nền đường vừa rộng, vừa phẳng. Tiểu đội trưởng Thịnh và trưởng đoàn xe cùng chỉ huy cho một xe chạy thử. Chiếc xe trườn lên qua lớp bao gạo vào cầu và qua cầu an toàn. Tiếp đó cả 19 chiếc xe chờ đầy vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm qua cầu không xảy ra điều gì.

Hoàn thành nhiệm vụ, chúng tôi đi bộ về hầm trực chiến. Vừa đi được chừng 500m, hai chiếc máy bay phản lực tiếng rít như xé trời bay vút qua trên đầu. Ở phía cầu đang có tiếng máy bay AC.130 cùng với tiếng đạn 37 ly từ máy bay bắn xuống dọc tuyến đường: Tạch đùng, tạch đùng, tạch đùng... Chiến thuật bắn xăm của máy bay AC.130 Mỹ cũng rất nguy hiểm đối với các đồng chí lái xe. Nếu 1 xe trúng đạn nằm trong đội hình cả đoàn xe thì đoàn xe ấy phải nhận tai họa và thiệt hại khó lường. Nhưng khi đó, cả đoàn xe đã qua cầu, đi vào tuyến trong an toàn.

Số gạo mà các chiễn sĩ lót đường cho xe qua, ngay ngày hôm sau đã được thu hồi, những bao rách đã được khâu và đóng lại cẩn thận, cả đống gạo chờ xe để chuyển về kho theo quy định. Thay vào cái hố, sau là những khối đất đá được các chiến sĩ đào đắp làm cho mặt đường rộng và phẳng hơn.

Thành tích của Tiểu đội 2 công binh vượt qua khó khăn, giải thoát đoàn xe quân sự kịp thời qua trọng điểm an toàn đã được báo cáo lên tiểu đoàn và trung đoàn. Đồng chí Trưởng ban Tác chiến trung đoàn đã trực tiếp điện xuống biểu dương Tiểu đội 2.

Trong dịp tổng kết mùa khô năm 1969 cả 7 chiến sĩ Tiểu đội 2, Trung đội 1, Đại đội 1, Tiểu đoàn 23 công binh đều được nhận Giấy khen của trung đoàn với thành tích: “Đã hoàn thành nhiệm vụ cứu xe, cứu hàng qua trọng điểm được an toàn”.

Bùi Đức Ba