Nhà thơ Đỗ Trung Lai

...Là một ông vua anh hùng, lại sùng bái Thiền học, sự mâu thuẫn, day dứt giữa "xuất” và “xử” là tất yếu. Rất giống với Thái Tông (bị chia sẻ trách nhiệm với dòng họ, với sơn hà - xã tắc, với vinh quang có sẵn ba đời, với giáo lý Nho học và những ảnh hưởng của thời đại Phật học bắt đầu mạnh từ thời Lý cùng những trải nghiệm cá nhân), Nhân Tông đã chọn tất cả: “Hiếu tử” - “Minh vương”- “Nghiêm phụ” - “Thi sĩ” - “Thiền gia” - “Thiền sư” - “Giáo chủ”, và... “hiển Phật” như dân gian truyền kể. Nhưng hướng Phật, có lẽ là tâm niệm suốt đời của ông.

Sử kể rằng, năm 1279, đang là Thái tử đương triều, khi theo cha (Thánh Tông) về thăm Yên Tử, ông đã xin được ở lại đây tu hành, Thánh Tông nổi giận mắng rằng: “Chí làm trai tựa chim hồng chim hộc, sơn hà xã tắc đè nặng hai vai, đâu để học đòi Thái tử Tất Đạt Đa lên non xanh cắt tóc”. Và, khi trở về kinh, Thánh Tông vội cử lễ truyền ngôi cho ông. Không muốn, nhưng nhận trọng trách, tạm gác chí riêng, vâng lời cha, thế là “Hiếu tử”.

Lên ngôi, ông củng cố sức mạnh quốc gia, dùng hiền tài, đánh thắng quân Nguyên hai lần - tức là hai lần đánh thắng một đế quốc mạnh loại nhất thế giới lúc bấy giờ - lại tiếp nối mạnh mẽ sự nghiệp Nam tiến có từ thời Lý, thế là “Minh quân”.

Năm 1301, ở Chiêm Thành về, nghe tin Anh Tông lơ là triều chính, ông đột ngột về kinh, với tư cách của một Thái Thượng Hoàng, ông triệu “vua con” đến quở trách, định truất ngôi. Nhờ triều thần can gián và Anh Tông biết lỗi, ông tha cho, nhưng răn rằng: “Đạo làm vua, hãy biết xem đất nước là của công chứ không phải của riêng mình. Hãy biết xem thiên hạ là nhà của chính mình”. Xem sổ, thấy Anh Tông ban chầu quá nhiều, ông hỏi: “Có một nước chỉ nhỏ bằng bàn tay mà sao lại ban chầu nhiều thế?”. Ông lại khuyên Anh Tông hãy tu dưỡng tâm tính, kiềm chế lòng dục, xa rời tửu sắc, giữ vững chân tâm, thực hành 10 điều thiện để mài dũa đức hạnh. Thế là “Nghiêm phụ”.

Với tư cách một “Thi sĩ”, Nhân Tông vừa hùng tráng vừa sâu sắc: “Cối Kê chuyện cũ người nên nhớ/ Hoan Diễn ta còn mười vạn quân”(Tức sự II).

Sự hùng tráng và sâu sắc trong thơ Trần Nhân Tông còn hiển hiện ở những câu thơ sau: “Trần triều ngựa đá hai phen mỏi/ Non sông ngàn thuở vững âu vàng” (Tức sự I), “Quân cấm vệ oai nghiêm nghìn cửa/ Đủ trăm quan, áo mũ thong dong/ Lính già tóc trắng như bông/ Còn đang kể chuyện Nguyên Phong thuở nào” (Ngày xuân viếng Chiêu lăng). Thơ Đường xưa có bài “Hành cung cũ” của Nguyên Chẩn: “Hành cung giờ tàn tạ/ Hoa đỏ nở âm thầm/ Cung phi già rỗi việc/ Ngồi kể chuyện Huyền Tông”. Huyền Tông tức là Đường Minh Hoàng, vua thời Thịnh Đường, người có mối tình vô cùng đẹp đẽ và vô cùng bi thảm với Dương Quý Phi. Trần Nhân Tông rất thạo thơ Đường nên đã “đoạt thai hoán cốt” hai câu thơ sau của Nguyên Chẩn để ca ngợi hào quang dài lâu của nhà Trần, khi đi viếng lăng ông nội mình (Thái Tông) như vậy!

Bên cạnh đó, thơ ông cũng vừa thuần Việt vừa uyển nhã, thâm thuý, dù dùng chữ Hán : “Chùa đóng cổng, đa già im bóng/ Tiếng ve đầu, như tứ thu gieo” (Thơ đề ở nhà thủy tạ chùa Phổ Minh); “Về Động Thiên vãn cảnh/ Hoa héo trên cỏ buồn/ Trời thương nơi hiu quạnh/ Thi thoảng, thả hồi chuông” (Trên hồ Động Thiên); “Mây còn che ngang núi/ Nắng chưa đầy ngõ hoa.../ Tựa hiên, nâng sáo ngọc/ Trăng chan hòa ngực ta” (Lên núi Bảo Đài); “Thức dậy, vén màn trông hoa rụng/ Oanh ngừng, xuân cạn, dạ người đau”(Nỗi buồn nơi phòng khuê); “Chùa xưa chiều buông vương sương mờ/ Chuông ngân, thuyền câu về lơ thơ/ Nước trong, núi lặng, cò bay trắng/ Mây chậm, cây rừng chớm nhuộm thu” (Cảnh chiều ở Lạng Sơn); cây mai của Nhân Tông cũng rất Việt: “Tuyết sớm, không sờn gan sắt đá/ Khăn trơn, quần mộc đón xuân về” (Cây mai - Hoa mai trắng muốt thành ra “lụa bạch”, thân mai nâu sẫm thành ra “quần mộc” thì trong thơ Đường không có!)… Phẩm chất Thi sĩ của ông sánh cùng Nguyễn Trãi. Ngay trong “kệ” của Nhân Tông cũng rất nhiều chất thơ: “Rừng vườn vắng vẻ không người quản/ Mận trắng đào hồng riêng tự hoa”..., “Đợi triều bên bể, trăng gần mọc/ Nghe sáo thuyền câu, khách nhớ nhà”..., “Cò trắng dưới đồng, ngàn điểm tuyết/ Oanh vàng trong khóm, một nhành hoa”(Sư đệ vấn đáp - bản dịch của Băng Thanh).

Với tư cách một “Thiền gia”, ông để lại nhiều kệ, thơ Thiền, ngữ lục. Ông viết: “Câu hữu câu vô/ Lập tông phái, ý chỉ/ Cũng là dùi rùa, đập ngói (dùi mai rùa lấy lửa, đập ngói thay xay giã gạo cũng chỉ là các động tác ngoại hình mà thôi), “Câu hữu câu vô/ Khiến người rầu rĩ/ Cắt đứt mọi duyên trần quấn quít như cây leo/ Thì hữu và vô đều hoàn toàn thông suốt”, “Bụt ở trong nhà - chẳng phải tìm xa”, “Sống giữa phàm trần, hãy tuỳ duyên mà vui với đạo - Đói thì ăn, mệt thì ngủ - Trong nhà sẵn của báu thì đừng tìm đâu khác - Đối diện với cảnh (sắc tướng) mà vô tâm, thì không phải hỏi Thiền nữa”. Khi Bảo Sái hỏi ông: “Như thế nào là Phật?”, ông nói: “Như cám dưới cối”...

Là một “Thiền sư”, Nhân Tông đã thu phục được giới tu hành, tập trung được họ dưới ngọn cờ của dòng Thiền Trúc Lâm mà ông là Tổ thứ nhất. Ông đào tạo nhiều môn đồ giỏi, lại chọn được những người giỏi nhất để truyền y bát, khiến dòng Thiền này phát triển mạnh mẽ. Chính ông đã sáng lập ra Giáo hội Phật giáo Trúc Lâm mà ông là “Giáo chủ”, một giáo hội nội địa, thống nhất, thuần khiết, tránh được mọi sự phân liệt có thể gây tổn hại cho cả đạo lẫn đời.Công sáng tạo, sáng lập ấy là vô cùng lớn đối với thời đại và dân tộc. Việc ông “hiển Phật”, dù chỉ là huyền thoại, thì cũng cho thấy sự ngưỡng vọng của chúng tăng ni và Phật tử cả nước, của toàn dân nữa, đối với ông.

Đến đây, ta hãy trở lại vấn đề “bỏ sắc tìm không” của Nhân Tông. Bị ràng buộc, bị chia sẻ tâm trí như vậy, nếu không phải là một trí thức lớn - có nghị lực, ý chí, khát vọng và tài lớn; có tâm niệm bền bỉ, có tâm hồn mềm mại và tính cách khoan hoà - thì không thể nào làm được ngần ấy việc. Ông giống ông nội Thái Tông ở chỗ có thể “bỏ ngôi báu như trút đôi dép rách vậy”, nhưng ông nhanh hơn, gặp thời hơn Thái Tông ở chỗ, ông bỏ ngôi thành công để đi theo cái khát vọng thời trai trẻ, tìm kiếm câu trả lời cho kiếp nhân sinh. Ông đã sáng lập cho quốc gia một giáo hội, một tông phái Thiền dân tộc, đẩy đời sống tinh thần, đẩy sự cố kết trăm họ - chúng sinh, lên vượt bậc, bằng sự điều hoà các Phật phái ngoại lai, bổ sung cho nó cái chất tự nhiên, thực tiễn, giản dị mà sâu sắc kiểu Việt Nam, để Phật giáo ta đã “không Hoa, không Ấn”, lại rất có ích cho chúng sinh - dân tộc. Từ đời Trần, từ ông, văn hoá, kiến trúc, triết học... tức là cái “thượng tầng” của người Việt, trở nên rực rỡ, đường bệ hơn trước nhiều. Có lẽ, ông là nhà vua đầu tiên hiểu rằng, một dân tộc chưa có triết học - tôn giáo - tư tưởng của riêng mình, là một dân tộc chưa trưởng thành, thiếu tự tin, “chưa tiến hoá hết”? Và vì thế, ông đã bỏ ngôi lên núi, để nhận lấy cái trách nhiệm của một nhà hiền triết - thông thái - học giả bậc thầy trong lĩnh vực này. Không những thế, ông còn trở thành lãnh tụ - “Giáo chủ” của Thiền phái Trúc Lâm, phái Thiền thuần Việt duy nhất đáng kể cho đến tận ngày nay. Những câu: “Phật pháp bất ly thế gian pháp”, “Cư trần lạc đạo” là rất đúng với ông, với cả cộng đồng nữa.

Chính vì những lẽ đó, Trần Nhân Tông phải được coi là nhân vật kiệt xuất nhất trong lịch trình phong kiến Việt Nam và cũng là nhân vật kiệt xuất nhất trong sơ đồ Phật giáo Việt Nam, một trong những niềm tự hào lớn nhất của dân ta.

Đỗ Trung Lai