Tầng tầng lửa, núi cao, vực sâu thách thức, ngang ngửa, trập trùng. Những nữ chiến sĩ lái xe tải quân sự Trường Sơn mảnh dẻ, dáng hình con gái, như cánh lan rừng hiện ra mộc mạc. Dòng dòng những đoàn xe ra trận. Những vô lăng tròn, những vòng quay xuyên đạn bom, xuyên mưa nắng, xuyên thời con gái hướng ra phía trước.
Bây giờ các chị ở đâu, làm gì? Ai còn sống và ai đã khuất? Những cô gái lái xe tải quân sự Trường Sơn năm ấy như sương khói lẫn vào nhân dân rồi ư? Đã hơn ba mươi năm, đã bốn mươi năm các chị vào chiến trường còn gì. Đạn bom là thế, thân gái mười sáu mười tám còn vào được chiến trường đã khơi gợi và thách thức tôi làm cuộc tìm kiếm các chị, tìm kiếm những cô gái lái xe tải quân sự Trường Sơn ngày ấy.
Tôi lên đường. Trời Hà Nội, Hưng yên, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình... những ngày ấy mưa rét, ẩm mốc. Có một cái gì xôn xao, cựa quậy ở trong tôi. Cứ hiện lên những cô gái mảnh mai căng mắt, rướn người vào vô lăng những chiếc tải Jin ba cầu, Gát 59, 69 kềnh càng trong đạn bom, đèo dốc Đông – Tây mấy ngả Trường Sơn trong các thước phim tài liệu, tôi như được tiếp thêm sức lực. Chiếc xe máy cà tàng cà rịch của tôi cứ thế lùi lũi bất chấp mưa rét, đường ổ trâu, ổ voi mà lăn bánh dọc ngang khắp các tỉnh thành.
Trong đội lái xe tải quân sự Trường Sơn ngày ấy, hiện nay còn sống gần trọn vẹn ở các tỉnh phía Bắc, họ gồm 40 chị do chị Nguyễn Thị Hòa, hiện nhà ở sát cổng Học viện Hậu cần, Gia Lâm, Hà Nội làm trưởng ban. Chị Hòa có đời riêng khá đặc biệt, là chính trị viên đại đội nữ lái xe (1971-1972), nghĩa là lo liệu phần hồn cho các “nữ xế” Trường Sơn vốn tinh quái, bướng bỉnh vào bậc nhất lúc ấy. Chị Hòa tiếp tôi ân cần, cung cấp mọi thông tin. Nhắc đến chị em, chị khóc. Bản thân chị, người chính trị viên, chỗ dựa của chị em, năm bốn mươi tuổi mới lập gia đình và diệu kỳ thay (hay giời thương) đã cho chị một mụn con ở cái tuổi tưởng như rất khó ấy. Chị khóc khi nói về những Trinh điếc (lái xe bị bom đánh nhiều quá điếc), Phàn còi (nhỏ bé cân nặng chưa đầy bốn mươi ki-lô-gam), Văn hoa lá (buồng lái lúc nào cũng có hoa và lá), Thanh vại (chiến tranh ác liệt thế mà người cứ vại ra), Quy nhè (xe chết ở ngầm là khóc nhè), Ánh người thứ 41 (to lớn như người Liên Xô), bây giờ còn đang lái xe cho Bộ Tài chính... và giọng chị nhòe đi, đứt nối khi nói về chị Phùng Thị Viên, trung đội trưởng mới mất (năm 2000) vì ung thư và các chị, nghĩa là ba mươi chín chị đã cùng nhận cháu Đoàn Phương Nga, con gái chị Viên làm con nuôi.
Theo chỉ dẫn của chị Hòa, tôi đến nhà nữ xế Thanh vại tại ngõ 95 Kim Mã. Đón tôi là đức ông chồng vâm váp nhưng hiền hậu, vào đề ngay: Anh là Hiệp, cùng cánh xế Trường Sơn cả. Chà chà, “xế gặp xế nên duyên ư?”. Thì thế. Đụng nhau ở Trường Sơn. Hôm ấy tắc đường, đang chả lùi chả tiến được thì một cái Jin ba cầu ở đâu sấn quát: “Anh kia, lùi ra!”. Lại tiếng con gái cơ chứ. Điên tiết vặc lại: “Đường đâu mà lùi!”. Người kia đâu có vừa, sấn sổ: “Lùi ngay không tôi bắn!”. Thế đấy, anh Hiệp phá lên cười, nụ cười tài xế nổ giòn như ống khói ô tô. Chị Thanh vại người Hải Phòng, mười sáu tuổi bố ép lấy chồng không chịu. Rồi vào lính. Rồi vào Trường Sơn. Rồi thành tài xế. Nổi tiếng ngang tàng, ương ngạnh, lì lợm với đạn bom, nhưng thương yêu chị em, sống chan hòa và cũng chính là chị cùng chị Hòa, chị Quy, chị Vân, mấy năm nay mở một cuộc đi tìm lại đồng đội. Khó khăn, tốn kém và khóc nhiều trước những cảnh huống đứt gánh giữa đường. Chị bảo tôi: “Khai ạ, sống được như vậy là may rồi, nhiều đứa khổ lắm, đến quần áo còn không có bộ nào để diện”. Thế đấy, người từng vung ma-ni-ven trước cánh xế nam ngày ấy bây giờ trầm mặêc, ưu tư...
Khó khăn nhất phải kể đến chị Nguyễn Thị Phàn ở Thái Bình. Số chị khổ từ trong bụng mẹ. Người loắt cha loắt choắt thế này thì ngày xưa chị lái xe tải quân sự thế nào nhỉ? Chị khoe vẫn còn giữ được chiếc đồng hồ Pôn Jốt của Bác Hồ gửi tặng. Tôi ngắm nghía chiếc đồng hồ, nâng nó lên mà lặng đi. Hóa ra niềm tin của con người mãnh liệt và bền lâu lắm, ăn sâu bám rễ để có cội có cành, có sông và biển, đất và trời từ những gì rất nhỏ và rất sâu.
Chị Quy và chị Vân hoa lá ngồi hai bên tôi. Các chị còn phong độ lắm. Tôi trêu: “Chắc chưa hết khấu hao!”, cả hai nữ tài xế phá lên cười sảng khoái phát tôi đau điếng. Chị Quy quê Kim Động, Hưng Yên, nhập ngũ năm 1965 đến năm 1968, vào trung đội nữ lái xe tải sau khóa học có bốn mươi lăm ngày rồi thành tay lái “cứng cựa” nhất, nhì trung đội. Chị Vân nhìn tôi nháy mắt: “Nghịch lắm đấy. Ngày xưa ghê gớm lắm”. Chị Quy phản pháo ngay: “Còn mày đấy. Ghét của nào trời trao của ấy. Rốt cuộc lại vớ phải một ông xế Trường Sơn”. Hai chị lại cười. Chuyện tình của Vân hoa lá rất thú vị. Chị chở thương binh ra Bắc. Anh tài xế bị thương vào chân còn cưa cẩm được cô nữ lái xe xinh đẹp. Hóa ra cánh xế nam Trường Sơn quả danh bất hư truyền, cũng chả chịu thua kém gì ai.
Chuyện về chiến sĩ nữ lái xe tải Trường Sơn ngày ấy, bây giờ thật là lắm chuyện. Cũng có chuyện vui, có chuyện buồn và cả ước nguyện: Được gặp mặt nhau, được giao lưu. Tôi, người em út, đồng đội nhỏ tuổi của các chị đã cùng các anh các chị thực hiện được mong ước ấy. Buổi giao lưu đã diễn ra thân mật, xúc động tại Học viện Hậu cần. Hôm ấy các chị vui lắm. Nụ cười và nước mắt, hoa và huân chương, tóc bạc và tóc xanh nhấp nhánh, rạng rỡ khuôn mặt ba mươi mấy con người trong tiếng nhạc khải hoàn chào mừng kỷ niệm ngày chiến thắng.
Ghi chép của Phùng Văn Khai