Lập trường bốn bên, mà thực chất là của hai bên Việt Nam và Mỹ, giai đoạn đầu rất xa nhau, mâu thuẫn nhau, khiến cho các cuộc đấu tranh diễn ra gay gắt trên bàn hội nghị, đến mức nhiều lúc phải gián đoạn. Trong lúc đó, trên chiến trường cả hai bên đều tìm mọi cách giành thắng lợi quyết định về quân sự để thay đổi cục diện chiến trường, lấy đó làm áp lực cho mọi giải pháp chấm dứt chiến tranh trên thế mạnh mà cả hai phía đang giành giật trên bàn đàm phán nhưng chưa đạt kết quả. Những thắng lợi quân sự của ta trong các chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, Đông Bắc và Đông Nam Campuchia trong năm 1971; các chiến dịch tiến công Trị-Thiên, Bắc Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Bắc Bình Định, Khu 8 Nam Bộ… trong năm 1972 đã làm quân Mỹ-ngụy bị thiệt hại nặng nề, làm phá sản chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” và tạo thế thuận lợi cho ta trên bàn đàm phán.
Ngày 8-10-1972, phái đoàn Việt Nam trao cho Mỹ bản Dự thảo “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam” và đề nghị thảo luận để đi đến ký kết. Lúc đầu, bản dự thảo được các bên nhất trí nhưng đến ngày 22-10, phía Mỹ lật lọng viện dẫn chính quyền Sài Gòn đòi sửa đổi bản dự thảo. Đêm 18-12-1972, Tổng thống Mỹ Ních-xơn ra lệnh ném bom huỷ diệt Hà Nội và Hải Phòng bằng máy bay chiến lược B52. Cuộc đụng đầu lịch sử trong 12 ngày đêm kết thúc bằng việc 81 máy bay các loại, trong đó có 34 máy bay B52 bị bắn rơi. Thất bại của Mỹ trên chiến trường miền Nam cùng với thất bại của không quân chiến lược Mỹ trên bầu trời Hà Nội đẩy Mỹ vào thế thua không thể gượng nổi, buộc Mỹ phải nối lại đàm phán tại Pa-ri. Trên tư thế bên chiến thắng, phái đoàn ta đã kiên quyết đấu tranh giữ vững nội dung của dự thảo Hiệp định đã thoả thuận.
Cuối cùng, ngày 22-1-1973 tại Trung tâm Hội nghị quốc tế Clê-be, Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam được Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và Kít-xinh-giơ ký tắt. Ngày 27-1-1973, Hiệp định được ký chính thức giữa Bộ trưởng Ngoại giao các bên. Hiệp định nêu rõ: Mỹ và các nước khác cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Mỹ phải hoàn toàn chấm dứt chiến tranh xâm lược, chấm dứt sự dính líu về quân sự và can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam; rút hết quân đội Mỹ và các nước khác, cố vấn và nhân viên quân sự, vũ khí và dụng cụ chiến tranh, hủy bỏ tất cả các căn cứ quân sự; tôn trọng quyền tự quyết và bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân miền Nam Việt Nam. Nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của mình thông qua tổng tuyển cử thật sự tự do và dân chủ. Ngày 29-3-1973, đơn vị cuối cùng của quân đội viễn chinh Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam dưới sự kiểm soát của sĩ quan Việt Nam Dân chủ cộng hoà trong Uỷ ban Liên hợp quân sự bốn bên.
Trong thời gian khoảng 5 năm, Hội nghị Pa-ri đã trải qua 201 phiên họp công khai, 45 cuộc họp riêng cấp cao, 500 cuộc họp báo, 1.000 cuộc phỏng vấn và đã có hàng nghìn cuộc mít tinh chống chiến tranh, ủng hộ Việt Nam. Trong các phiên họp chung công khai cũng như các cuộc tiếp xúc riêng, phía Việt Nam không bỏ qua bất cứ vấn đề quan trọng nào có liên quan đến cuộc chiến tranh ở Đông Dương, nhưng tập trung mũi nhọn đấu tranh vào hai vấn đề mấu chốt nhất là đòi rút hết quân Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam, đòi Mỹ tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản và quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam. Phía Mỹ ngược lại, trước sau ngoan cố nêu quan điểm “có đi có lại”, đòi hai bên (cả quân đội miền Bắc có tại miền Nam) “cùng rút quân”!
Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam là kết quả của cuộc đấu tranh kiên cường bất khuất của nhân dân ta ở cả hai miền đất nước, đã tạo ra bước ngoặt mới trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta. Cội nguồn của thắng lợi Hội nghị Pa-ri là tinh thần quyết chiến quyết thắng, là ý chí quật cường đấu tranh bền bỉ giành độc lập tự do của cả dân tộc Việt Nam. Cuộc đấu tranh này phản ánh đầy đủ sự lãnh đạo tài tình của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trí tuệ của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam, dựa vào chính nghĩa của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Hội nghị Pa-ri và Hiệp định Pa-ri mãi đi vào lịch sử của cách mạng Việt Nam nói chung và ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh nói riêng như một dấu son không bao giờ phai mờ.
Nguyên Phong