“Có sức bao nhiêu cống hiến tất cả”

Tiểu đoàn Vận tải 232 (Cục Hậu cần Quân khu 5) được thành lập ngày 8-3-1968 do đồng chí Phạm Thị Thao làm Tiểu đoàn trưởng, gồm hơn 600 cô gái tuổi mười sáu, đôi mươi làm nhiệm vụ vận tải trên tuyến đường Trường Sơn. Ôn lại ký ức “thời hoa lửa”, các nữ CCB cứ nhắc mãi câu nói luôn tâm niệm trong lòng: “Có sức bao nhiêu cống hiến tất cả”. Đó cũng là mệnh lệnh, là tình cảm xuất phát từ chính trái tim người chiến sĩ hậu cần Khu 5. Ngày ấy, cùng với đưa vũ khí, đạn dược, thuốc men ra chiến trường, gùi cõng thương binh về tuyến sau; sẵn sàng chiến đấu đánh địch bảo vệ hàng, bảo vệ đường hành lang, đơn vị còn xuống đồng bằng chuyển gạo, tiền, thuốc chữa bệnh, muối, mở đường, dựng nhà, làm kho chứa hàng, sản xuất chăn nuôi tại chỗ. Vượt lên bom đạn, hiểm nguy, các chị luôn đoàn kết, cộng đồng trách nhiệm, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Trong ký ức của Tiểu đoàn trưởng Phạm Thị Thao, dấu chân đơn vị đã in khắp vùng núi Quảng Nam, Quảng Ngãi, Gia Lai…; từ dốc Lò Xo đến Hòn Kẽm, Đá Dừng, đèo Le, đèo Phượng Tổng... Thời kỳ đầu, chỉ tiêu trên giao mỗi người 40kg/chuyến, chị em thi đua tăng lên 60kg-70kg; những chuyến hàng cao điểm phục vụ các chiến dịch, phấn đấu mỗi người đạt 100kg/chuyến. Ngoài việc động viên nhau, các chị lập thêm cung trạm tăng chuyến, tăng bo hàng, tăng thời gian, hỗ trợ nhau khi vượt đèo cao, suối sâu…

Tiếng hát át tiếng bom, vượt lên bom đạn quân thù, tiếng ca của chị em vẫn vang lên rộn rã:

Rừng khuya tiếng hát vang lừng/ Hò reo vượt dốc xuyên rừng trong đêm/ Căm thù thôi thúc lòng em/ Trèo đèo, lối suối ngày đêm chuyển hàng.

Chị Phạm Thị Sen - Đại đội phó Đại đội 1 kể: “Chúng mình đều con nhà lao động, đang tuổi “bẻ gãy sừng trâu”, đi cắt tranh, gùi hàng, bạt ta luy mở đường... việc gì cũng phăm phăm. Hiềm một nỗi, phải xa nhà xa quê, nỗi nhớ người thân luôn cồn cào, quặn thắt, đôi khi đêm về lại lén khóc thầm.

Khơi dậy niềm lạc quan yêu đời, Ban chỉ huy Tiểu đoàn và các Đại đội dành tâm huyết sưu tầm những ca khúc cách mạng: “Cô gái mở đường”, “Nổi lửa lên em”, “Tiếng chày trên sóc Bom Bo”, “Tiếng đàn ta-lư”... Lúc đầu phân công người hát, sau rồi cả đơn vị đều thuộc lòng, hát theo. Đi đâu chúng tôi cũng hát, hát trên đường hành quân, những đêm sinh hoạt đơn vị, hát cả sau những cơn sốt rừng tê tái hay hát cho thương binh nghe... Chính nhờ đó mà hàng được vận chuyến liên tục, năng suất cứ tăng lên”. Tiểu đoàn Vận tải 232 đã được Cục Hậu cần tặng danh hiệu “Kiện tướng hành lang, gương mẫu, đảm đang, chân đồng vai sắt”. Năm 2010, tập thể đơn vị và Tiểu đoàn trưởng Phạm Thị Thao cùng Chính trị viên phó Đại đội 2 Nguyễn Thị Huấn được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND.

“Bom thù, mưa dội, đường trơn/ Hàng em vẫn xẻ Trường Sơn đi về”, hình ảnh những cô gái trẻ măng cùng chiếc gùi cao hơn đầu, ngực lúc nào cũng căng ra vì hàng nặng sau lưng sẽ còn đọng lại mãi trong ký ức của đồng đội và nhân dân thuở ấy. Với phương châm "Đạp 50 cân xuống đất, hất 70 cân sang bên, vì chiến trường mang lên 1 tạ" hay "Không tính khối lượng, không tính chỉ tiêu, có sức bao nhiêu cống hiến tất cả"... đơn vị đã dệt nên bao huyền thoại, mãi bất tử cùng những chiến công trên các cung đường Trường Sơn máu lửa. Kẻ thù đã cướp đi tuổi thanh xuân của các chị, 58 người con gái với cái tuổi trăng tròn đã vĩnh viễn nằm lại. Nhiều chị là thương binh, nạn nhân chất độc da cam, một số chị đã mất sau ngày hòa bình vì di chứng của chiến tranh… Các chị đã để lại tiếng thơm cho Tiểu đoàn “Vai trăm cân, chân vạn dặm”. Tháng 10-1972 giải thể, trong 4 năm công tác, Tiểu đoàn 232 đã vận chuyển hơn 5.000 tấn hàng ra chiến trường. Ước tính trung bình mỗi nữ chiến sĩ đi bộ khoảng 600km mỗi năm.

Lòng quyết tâm cao hơn núi

Chị Nguyễn Thị Huấn - Chính trị viên phó Đại đội 2, từng là nữ kiện tướng gùi hàng “chân đồng vai sắt” của Tiểu đoàn, bộc bạch: “Những năm tháng ấy, dù người nào cũng thường trực chất trên vai các loại vũ khí cồng kềnh, những bao gạo nặng trĩu để vận chuyển ra tiền tuyến nhưng bản thân chị em, lương thực quanh năm suốt tháng chỉ toàn sắn, củ nưa, củ mài, môn thục, rau dớn, cây dương sỉ, cây móc… Tất cả phải đào hái lấy để ăn, phải phát nương làm rẫy trồng ra khoai sắn, bắp, lúa để tiếp tục chiến đấu. Bước vào dịp vận chuyển cao điểm, cấp trên bồi dưỡng cho mỗi người nửa lon gạo một ngày, mà chỉ được tối đa 10 ngày. Nhưng số gạo này chị em thống nhất giữ lại để nấu cháo cho những người bị ốm đau và các thương binh từ chiến trường chuyển ra”.

Muối là mặt hàng chiến lược rất khan hiếm, mỗi người 1 tháng chỉ được cấp nửa lon. Có lúc 6 tháng liền Tiểu đoàn không có muối mà ăn, phải thay bằng tro tranh nhưng cũng phải hết sức tiết kiệm, dè sẻn. Về mặc càng khó khăn, mỗi người 1 năm tiêu chuẩn chỉ được 2 bộ quần áo vải tám. Mùa mưa đi gùi hàng, tấm ni lông che người dành ưu tiên che hàng nên quần áo luôn ướt sũng, đêm đến phải tranh thủ giặt bằng nước tro chứ không có xà phòng, rồi đốt củi sấy hong để kịp khô cho chuyến hàng hôm sau.

Giữa đạn bom ác liệt, các nữ quân nhân luôn đồng cam cộng khổ, san sẻ từng viên thuốc, cọng rau, thìa cháo. Giỏi giang tháo vát như vậy nên nơi nào có đơn vị khó hoàn thành nhiệm vụ vận chuyển thì trên lại đưa Tiểu đoàn Vận tải 232 đến, bố trí vận chuyển xen kẽ. Bất chấp mọi điều kiện địa hình, thời tiết, cung đường, thời gian, bất kể vận chuyển thường xuyên hay đột xuất, cao điểm, khi được cấp trên giao, cả Tiểu đoàn đều nêu cao quyết tâm thực hiện nghiêm túc và đạt hiệu suất cao. Sự gương mẫu của chị em đã tiếp thêm sức mạnh, thổi bùng ý chí chiến đấu, giúp các đơn vị bạn chiến thắng trở ngại, vững bước tiến lên:

Khu 5 bao núi bao đèo/ Thì em tình nghĩa, sớm chiều thiết tha/ Đền nợ nước, trả thù nhà/ Đánh Mỹ bằng chuyến hàng ra chiến trường.

(Em là một đóa hoa tươi - thơ Minh Ánh)

Tấm gương sống, chiến đấu và thành tích của Tiểu đoàn Vận tải 232 mãi là truyền thống cao đẹp của Ngành Hậu cần Quân khu 5, thôi thúc các nữ quân nhân LLVT Quân khu 5 hăng hái thi đua “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”.

Đỗ Thị Ngọc Diệp